Diễn biến và sự phát triển Hồn Trương Ba da hàng thịt trong sân khấu Việt Nam

15:48 18/04/2019

NGUYỄN THỊ THANH VÂN

Hồn Trương Ba da hàng thịt là câu chuyện dân gian được lưu truyền phổ biến ở Việt Nam. Thông qua nhân vật Trương Ba - Hồn là Trương Ba trú ngụ trong xác anh hàng thịt nêu lên mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn, vấn đề nhân sinh về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên để hoàn thiện bản thân.

Một cảnh trên sân khấu diễn lại vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ - Ảnh: GD&TĐ

Câu chuyện Hồn Trương Ba da hàng thịt tồn tại hàng trăm năm này đã trở thành đề tài sáng tác của các tác giả trong nghệ thuật sân khấu truyền thống và hiện đại. Ở mỗi bộ môn nghệ thuật các tác giả đã tái cấu trúc câu chuyện với cấu tứ sáng tác và phù hợp cho từng môn loại sân khấu. Vấn đề cốt truyện và tư tưởng chủ đề, nhân vật, ngôn ngữ... cũng được thể hiện trong từng kịch bản khác nhau. Nhưng ở bài viết này, tác giả chỉ muốn nêu lên sự biến đổi của tình tiết câu chuyện và sự lưu truyền nhân vật Trương Ba trong Hồn Trương Ba da hàng thịt từ dân gian đến sân khấu, và đặc biệt là trong vở kịch của cố tác giả Lưu Quang Vũ. Hình tượng nhân vật Trương Ba và lô gic phát triển của câu chuyện Hồn Trương Ba da hàng thịt dần dần có sự thay đổi theo thời gian, nhưng không lớn, sự biến đổi ở đây chính là cấu tứ nghệ thuật của tác giả. Đó chính là sự phê phán của Hồn Trương Ba da hàng thịt được tác giả Lưu Quang Vũ kế thừa, hoán chuyển và nâng lên từ đề cao linh hồn, sự tuyệt đối của linh hồn đối với thể xác trong câu chuyện dân gian, hay từ sự chế giễu đám quan lại thối nát, làm đảo lộn mọi giá trị cuộc sống con người trong vở Tuồng hài Trương đồ nhục, thì ở trong kịch Lưu Quang Vũ nó đã trở thành triết lý sâu sa mang tính nhân văn sâu sắc đó là lẽ sống, quyền làm người giữa bi hài kịch linh hồn và thể xác, giữa hồn của Trương Ba và xác anh hàng thịt.

Căn cứ vào các tư liệu và lưu truyền trong dân gian, thì nội dung của câu chuyện dân gian Hồn Trương Ba da hàng thịt kể về nhân vật Trương Ba, vì có tài đánh cờ giỏi nên là bạn chơi cờ với Đế Thích. Cảm động trước sự chu đáo mà Trương Ba dành cho Đế Thích, ông liền tặng cho Trương Ba nén hương và dặn mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống. Sau đó Trương Ba chết đột ngột, người vợ chôn cất chồng xong mới đốt hương báo cho Đế Thích biết. Nhân có người hàng xóm làm nghề mổ thịt lợn chết, Đế Thích làm cho Trương Ba sống lại bằng cách nhập vào anh hàng thịt. Tỉnh lại và sống với thân xác anh hàng thịt, cuộc sống Trương Ba rối tung lên, không biết làm thế nào để đối mặt với vợ anh hàng thịt vì nhận Trương Ba làm chồng. Cuối cùng, kiện lên quan Tri huyện và cuối cùng quan phán cho về nhà Trương Ba, sống với thân phận Trương Ba. Câu chuyện dân gian Hồn Trương Ba da hàng thịt này đề cao linh hồn, sự tuyệt đối của linh hồn đối với thể xác.

Câu chuyện Hồn Trương Ba da hàng thịt này tồn tại hàng trăm năm và đã trở thành đề tài sáng tác của các tác giả trong nghệ thuật sân khấu truyền thống và hiện đại, như: tuồng, chèo, kịch... và trong sân khấu Tuồng, nó lấy tên là Trương đồ nhục 張屠肉 (hay Trương đồ nhục truyện (張屠肉 傳). Cách đặt tên này đã cho thấy sự chuyển đổi tên gọi sang một loại hình khác, từ câu chuyện dân gian sang nghệ thuật - tái sáng tác Hồn Trương Ba da hàng thịt, vừa thể hiện sự xuất sắc của tác phẩm, tức là làm sâu sắc tình tiết, chủ đề và nhân vật, vừa tăng cường sức biểu hiện của câu chuyện bằng ngôn ngữ đối thoại - sân khấu. Phải nói rằng Hồn Trương Ba da hàng thịt có lẽ là một câu chuyện dân gian hấp dẫn ít thấy đối với những nhà sáng tác nghệ thuật. Sự chuyển dịch câu chuyện này đã phần nào nói rõ sự chuyển đổi hình thức từ lối viết văn ngôn tự sự sang văn chương đối thoại.

Trong các sáng tác tuồng Trương đồ nhục hiện có, như: kịch bản Nôm Trương đồ nhục truyện (張屠肉傳, khuyết danh) của Thư viện Anh Quốc (British Library, 96 Euston Road, London). Các bản tuồng này đã được hiến tặng cho Thư viện Anh Quốc vào năm 1894; Trương đồ nhục của Nguyễn Hiển Dĩnh; Trương đồ nhục do nghệ nhân La Cháu sưu tầm ở Huế; Trương đồ nhục của Kính Dân, có lẽ kịch bản Trương đồ nhục của cụ Tuần An Quán Nguyễn Hiển Dĩnh là mở đầu cho sự hoán chuyển câu chuyện dân gian Hồn Trương Ba da hàng thịt lên sân khấu. Mặc dù, hiện nay vẫn chưa xác định được niên đại sáng tác vở Trương đồ nhục của Nguyễn Hiển Dĩnh và kịch bản Tuồng Nôm Trương đồ nhục truyện của Thư viện Anh Quốc và mối quan hệ của nó. Nhưng cũng có thể khẳng định đây là những kịch bản thể hiện sự chuyển dịch câu chuyện dân gian này lên sân khấu sớm nhất.

Ngay từ khi ra đời, kịch bản Trương đồ nhục đã được các gánh hát dàn dựng và đưa lên biểu diễn, thành thử mỗi nơi dàn dựng, mỗi lần dàn dựng đều có sự thay đổi khác nhau. Vì trong quá trình dàn dựng do nhu cầu biểu diễn, và để phù hợp với tình hình thực tế, ê kíp sáng tạo đã chỉnh sửa kịch bản. Do đó kịch bản sân khấu nói chung và kịch bản tuồng nói riêng có nhiều dị bản. Kịch bản tuồng Trương đồ nhục hiện còn cũng không ngoại lệ, nhưng tựu chung đều thống nhất nội dung cốt truyện: Vì anh hàng thịt họ Trương làm nghề mổ lợn bị Diêm Vương sai quỷ sứ đến bắt nhưng quỷ sứ bắt lầm phải Hòa thượng họ Trương. Khi Diêm Vương biết mình sai lầm thì nhà chùa đã thiêu xác Trương Thiền sư rồi. Kết quả, Diêm Vương cho hồn Trương Thiền sư nhập vào xác anh hàng thịt họ Trương. Trương Đồ Nhục sống lại khiến vợ anh hết sức mừng rỡ, nhưng do linh hồn Trương Thiền sư trú trong xác Trương Đồ Nhục nên mang lại cho anh ta rất nhiều rắc rối, và cũng không biết phải đối mặt thế nào với vợ Trương Đồ Nhục, cuối cùng hồn Trương Thiền sư xác anh hàng thịt đành chạy lên chùa. Sự nhập hồn xác này ở đây tác giả đã cho thấy sự tương phản bi hài của con người Trương Thiền sư hiện tại. Một ông sư suốt ngày gõ mõ, ăn chay, tụng kinh, niệm Phật sống trong hình hài cái xác thô kệch, tính tình thô bạo của anh hàng thịt thì quả là sự gán ghép khập khiễng. Sự kiện hồn nhập xác này gây nên bao sự bi hài dở sống dở chết, đảo lộn thói quen sinh hoạt, nếp sống của con người “là mình mà chẳng phải là chính mình”.

Kịch bản Trương đồ nhục này là một tác phẩm đỉnh cao của Nguyễn Hiển Dĩnh, cũng là một trong những kiệt tác tiêu biểu trong Tuồng dân gian. Tình tiết câu chuyện của Trương đồ nhục có sự thay đổi so với câu chuyện dân gian. Nhân vật chính trong câu chuyện dân gian là hồn của Trương Ba trú ngụ trong xác anh hàng thịt, nhưng khi sáng tác tuồng, các tác giả lại thay đổi nhân vật Trương Ba và để nhân vật này biến thành Trương Thiền sư trú ngụ trong xác anh hàng thịt (Trương Đồ Nhục). Trương Thiền sư chỉ vì trùng tên họ mà phải chết oan, Diêm Vương vì trừng trị tội anh hàng thịt làm nghề mổ lợn mà xử tội chết. Một người vì bị trùng tên phải chết oan, một người vì nghề nghiệp mà chết. Đến khi được sống lại thì người được hồn, kẻ thì được xác. Thế là một cuộc tác hợp cho hồn gửi vào xác. Trương Thiền sư sống lại trong xác anh hàng thịt Trương Đồ Nhục. Vợ Trương Đồ Nhục mừng vì chồng sống lại, nhưng hóa ra là Trương Thiền sư. Thiền Sư dở khóc dở cười khi phải đối mặt với vợ anh hàng thịt họ Trương - Thị Tuyết, không còn cách nào khác phải bỏ chạy vào chùa, cắt tóc thành sư. Vợ Trương Đồ Nhục gào thét vì không đòi được chồng, kiện quan, thì quan lại xử: Tha cho Trương Thiền sư về chùa, năm nào Thiền sư thoát tục thì trả xác Trương Đồ Nhục cho Tuyết Thị (vợ Trương Đồ Nhục), nên nàng đau đớn than khóc. Lời phán của huyện quan “Thiền sư nễ hà niên thoát tục, Cốt hài giao cho Tuyết Thị phong trần”1 đã nói lên kết cục mở của vở tuồng hài này, vợ Trương Đồ Nhục chỉ có thể nhận được xác chồng (tro cốt) trong sự chờ đợi đau đớn, tuyệt vọng. Thế là, câu chuyện dân gian lưu truyền Hồn Trương Ba da hàng thịt theo quan điểm của các nhà sáng tác sân khấu phát triển, thay đổi, thái độ nhân vật Trương Thiền sư trong vở tuồng Trương đồ nhục cũng thay đổi theo tình tiết câu chuyện và cuối cùng nghe theo sự phán xét của quan huyện ở lại chùa cho đến khi viên tịch. Sự thay đổi tình tiết, nhân vật ở đây của tác giả Nguyễn Hiển Dĩnh trong Trương đồ nhục được chúng ta chấp nhận, thay nhân vật Trương Ba bằng Trương Thiền sư cho thấy tác giả nhìn nhân vật này dưới lăng kính nghệ thuật, con người Trương Thiền sư ở đây ăn chay, niệm Phật, thanh tịnh và thánh thiện hơn nhân vật Trương Ba trong câu chuyện dân gian. Thế là trong quá trình lưu truyền, tình tiết câu chuyện và nhân vật Trương Ba đã trải qua sự cải biến để vở tuồng có ý nghĩa châm biếm sâu sắc hơn, phản ánh xã hội rối ren, cái ác ngự trị, đảo điên giá trị chân thực. Ở đây tác giả cũng bộc lộ thái độ căm ghét đối với xã hội.

Nguyễn Hiển Dĩnh không hổ là bậc thầy của Tuồng dân gian, nhân vật Trương Thiền sư mang tính bi hài kịch được xử lý trong Trương đồ nhục vừa khác biệt với các thủ pháp sáng tác của Tuồng hài, vừa phát huy được tính bi hài kịch trong tác phẩm sân khấu, trong tiếng cười còn có nước mắt. Cái chết của Trương Đồ Nhục ở đầu câu chuyện và ở cuối vở tuồng là sự phán xét về cái chết của Trương Thiền sư vừa là nguyên nhân vừa là kết quả dẫn ra mọi tình tiết của câu chuyện. Ở đây, của tác giả Nguyễn Hiển Dĩnh đã để cho nhân vật Trương Thiền sư thay thế nhân vật Trương Ba vừa nhấn mạnh “luật nhân quả” trong giáo lý nhà Phật, vừa mang màu sắc của tôn giáo. Trương đồ nhục ra đời vào cuối thế kỉ XIX, khi mà đất nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược, triều đình bất lực và hoàn toàn phụ thuộc vào sự điều hành của chính quyền thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, phong trào Thiện đàn và văn thơ, kinh giáng bút, chấn hưng văn hóa, nhiều tác phẩm mượn lời của Tiên, Phật, Thánh kêu gọi đoàn kết dân tộc. Bản thân là một nhà Nho, hơn nữa ông đã từ quan về làm bầu gánh, Nguyễn Hiển Dĩnh cũng không thể đứng ngoài cuộc. Do đó, nhân vật Trương Ba xây dựng trong tác phẩm của ông có lẽ cũng mang tư tưởng, chịu ảnh hưởng giáo lý của Phật. Đó là tác giả muốn thông qua giáo lý nhà Phật để hướng con người làm điều thiện, hoàn thiện bản thân để chống lại chế độ quan lại bù nhìn, hủ bại, mục nát.

Câu chuyện dân gian Hồn Trương Ba da hàng thịt sau này còn nhận được nhiều sự đồng tình của những nhà sáng tác sân khấu hơn. Thế là, kịch bản Chèo Hồn Trương Ba da hàng thịt (tác giả khuyết danh) ra đời. Kịch bản này vẫn giữ nguyên tên gọi và nguyên mẫu nhân vật Trương Ba như trong câu chuyện dân gian, nhưng có thêm tình tiết mới để làm phong phú hơn nhân vật chính này. Về cơ bản nội dung tình tiết của kịch bản chèo Hồn Trương Ba da hàng thịt không phát triển nhiều. Kết thúc vở kịch, Quan huyện phán xử cho anh chàng “hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt” cùng vợ Trương Ba nên duyên vợ chồng: “Vợ chồng Trương Ba kia, vợ chồng ngươi thiên duyên số định, nhờ tiên ông cải tử hoàn sinh, đưa nhau về ở chốn gia đình hãy ăn ở cùng nhau cho hòa thuận.2 Cái kết này là kiểu “kết cấu có hậu” giống với cái kết của câu chuyện dân gian và đúng với cấu trúc tự sự của sân khấu truyền thống. Vì thế, câu chuyện dân gian này được diễn kể trong sân khấu Chèo hoàn toàn phù hợp với logic cốt truyện và mang dấu ấn đậm nét tinh thần, chủ đề của câu chuyện gốc. Tuy nhiên, câu chuyện được miêu tả ở đây Trương Ba không phải người trưởng thành mà là người được đầu thai, giáng thế. Trương bà đã “ứng mộng chiêm bao và mang thai và sinh ra nam nhân, khuôn mặt hồng hào, có tai lớn, cổ cao, đặt tên là Trương Ba”3. Khi lớn lên nhân vật Trương Ba ở đây không chỉ có lai lịch xuất thân thần bí, giỏi đánh cờ mà còn theo thầy đồ học sách thánh hiền. Có thể thấy, Trương Ba ở đây lại lắp ghép thêm chi tiết đầu thai vào tiểu sử của ông. Những chi tiết này đều quen thuộc, khá phổ biến trong dân gian và ở đây kịch bản chèo đã thêm vào mô típ huyền thoại này sáng tác văn bản chèo Hồn Trương Ba da hàng thịt để tăng thêm yếu tố huyền thoại hóa cho nhân vật Trương Ba, lý giải tài đánh cờ của nhân vật và phù hợp với phương pháp sáng tác huyền thoại hóa dân gian của nghệ thuật Chèo. Yếu tố giáng trần này vừa thực lại vừa huyền ảo và cả hai chất liệu này cứ đan kết vào nhau, xâm nhập lẫn nhau, trong cái thực có hư và trong hư có thực.

Sự diễn biến và phát triển của câu chuyện dân gian này vẫn được tiếp nối và đến những năm 80 của thế kỷ XX, trên sân khấu Việt Nam xuất hiện Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Tác phẩm này thuộc đề tài khai thác các truyện dân gian và cũng là một trong những mảng nổi bật trong kịch của ông. Các kịch bản Hồn Trương Ba da hàng thịt, Nàng Sita, Linh hồn của đá của Lưu Quang Vũ tuy mượn cốt truyện cũ nhưng mang sẵn những tư tưởng nhân đạo cao cả, những triết lý nhân sinh sâu sắc mà thời nào cũng đề cao, để chuyên chở những vấn đề thời sự, những tư tưởng nghệ thuật. Đó là cuộc đấu tranh để hoàn thiện xã hội, hoàn thiện nhân cách con người. Những vấn đề này được tác giả Lưu Quang Vũ thay đổi, mở rộng đấu tranh, hiện đại hóa thông qua những tác phẩm của mình. Vấn đề thời sự tưởng chừng như cũ nhưng đầy gai góc, đặt ra lẽ sống làm người trong kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt.

Kịch bản Hồn Trương Ba da hàng thịt xuất phát từ câu chuyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng nên một vở mới với những khám phá mới. Chủ đề phê phán, vấn đề tệ nạn quan liêu trong các của vở Tuồng đồ Trương đồ nhục trước kia ở đây đã làm giảm đi, nhẹ đi cho tính triết lý sâu xa về những mối mâu thuẫn dẫn đến tính bi hài kịch của sự không ăn khớp giữa hồn và xác, và giữa cái là mình và không phải là mình đã làm cho kịch của Lưu Quang Vũ thấm đẫm tính hiện đại.

Có lẽ kịch bản Hồn Trương Ba da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Tác phẩm trung thành với cốt truyện dân gian, vẫn giữ nguyên tên gọi, nhưng tác giả đã kế thừa, gia tăng tình tiết căng thẳng hơn, tạo nhiều xung đột hơn để xây dựng thành một tác phẩm phù hợp với kịch nói hiện đại, và lồng vào đó nhiều triết lý nhân văn về cuộc đời, chứa đựng những tư tưởng mới mẻ, tiến bộ. Vở kịch tuy dựa vào một cốt truyện dân gian nhưng tư tưởng của tác phẩm là thái độ trân trọng, gìn giữ những giá trị tự nhiên của con người đang bị xã hội làm tha hóa, biến chất. Thông điệp gửi gắm trong Hồn Trương Ba da hàng thịt mang tính chất vĩnh viễn, đời đời. Vở kịch tuy được viết vào những năm 80 khi đất nước đã và đang đổi mới, nên nó ắp đầy tính thời sự. Nó là tác phẩm nghệ thuật nảy sinh trong quá trình đất nước và văn học nghệ thuật bước vào thời kỳ đổi mới, nên nó có sự giao thoa giữa nội dung và hình thức, giữa cũ và mới, sự giao lưu giữa Đông (cốt truyện dân gian) và Tây (hình thức kịch nói). Nhân vật và tình tiết câu chuyện dân gian được tác giả diễn dịch phát triển, đặc biệt là cảnh kết của vở kịch khi để cho nhân vật Trương Ba chết của tác giả Lưu Quang Vũ đi ngược với câu chuyện dân gian. Cái chết này chính là bi kịch, giải thoát, nó kết thúc quá trình đi tìm lại chính mình của hồn Trương Ba, dứt khoát chia tay với xác anh hàng thịt.

Hồn Trương Ba da hàng thịt của tác giả Lưu Quang Vũ ra đời cho đến hôm nay đã trường tồn gần 40 năm cùng với các đơn vị nghệ thuật trên cả nước. Với nhà hát kịch Việt Nam - đơn vị dựng đầu tiên và tái dàn dựng nhiều lần kịch bản của Lưu Quang Vũ, vở diễn đã giành được Huy chương Vàng tại Liên hoan sân khấu Quốc tế tại Moskba năm 1990 và được sinh viên nhiều trường đại học của Mỹ đón nhận. Vấn đề triết lý nhân sinh, mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên mà tác giả gửi gắm vào vở kịch vẫn còn nguyên giá trị. Thông điệp này là nền tảng để xây dựng một xã hội tốt đẹp vì cuộc sống của con người nên cần được phát huy. Những giá trị trong kịch bản Hồn Trương Ba da hàng thịt của tác giả Lưu Quang Vũ đó cần được thế hệ trẻ và đặc biệt là học sinh tiếp nhận như một bài học quý giá về giá trị sống đích thực của con người trong xã hội hiện đại.

Thông qua các kịch bản sân khấu Trương đồ nhục (Tuồng) của Nguyễn Hiển Dĩnh, Hồn Trương Ba da hàng thịt (Chèo), Hồn Trương Ba da hàng thịt (kịch nói) của Lưu Quang Vũ, chúng ta thấy, hầu hết các tác phẩm này đều mượn cốt truyện dân gian và thêm vào một số tình tiết để diễn dịch thành tác phẩm sân khấu. Nhưng trong mỗi tác phẩm, tác giả đều kể chuyện bằng ngôn ngữ khác nhau, câu chuyện Hồn Trương Ba da hàng thịt của sân khấu Chèo và kịch nói bám sát vào cốt truyện dân gian vốn có, còn kịch bản Trương đồ nhục của Tuồng đã thay đổi nhân vật chính Trương Ba biến thành Trương Thiền sư, nhưng nó vẫn mang hồn, cốt của câu chuyện dân gian. Để phù hợp với ý đồ sáng tác, các tác giả sân khấu đã hư cấu một số tình tiết, và thêm, bớt một số nhân vật phụ nhằm làm nổi bật nhân vật chính và vẫn đảm bảo tính logic của một tác phẩm sân khấu. Từ đó cho thấy, hiện nay có một số lượng không nhỏ các kịch bản sân khấu mượn cốt truyện dân gian của Hồn Trương Ba da hàng thịt để chuyển dịch lên sân khấu. Các kịch bản này là sản phẩm của nhiều tác giả ở các môn loại nghệ thuật trong các thời điểm khác nhau. Cùng một câu chuyện dân gian, nhưng cách khai thác cốt truyện, tình tiết và nhân vật của từng kịch bản khác nhau để phù hợp với đặc trưng ngôn ngữ sân khấu, gắn liền với sự sáng tạo của tác giả.

Câu chuyện dân gian Hồn Trương Ba da hàng thịt trải qua các thời kì khác nhau được lưu truyền, cải biên và chuyển thể thành tác phẩm sân khấu, bắt đầu từ kịch bản Tuồng Trương đồ nhục của Nguyễn Hiển Dĩnh và kịch bản Chèo, thì câu chuyện đã được đưa lên sân khấu và đến kịch bản Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ thì nó đã mở rộng hơn, trở thành vở kịch kinh điển, có giá trị vĩnh hằng. Cũng chính từ kịch bản Hồn Trương Ba da hàng thịt của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, mà tác phẩm sân khấu này đã lan tỏa đến các trường học phổ thông và dùng làm chương trình giảng dạy Văn lớp 12 của hệ thống giáo dục phổ cập ở Việt Nam. Việc đưa kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt của tác giả Lưu Quang Vũ vào giới thiệu ở chương trình học phổ thông đã khẳng định giá trị và tầm ảnh hưởng của vở kịch đối với thế hệ trẻ. Với thành công và sức lan tỏa của Hồn Trương Ba da hàng thịt cùng nhiều kịch bản khác, tác giả Lưu Quang Vũ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX và là một nhà viết kịch kiệt xuất của Việt Nam.

Quá trình diễn biến và phát triển câu chuyện dân gian Hồn Trương Ba da hàng thịt ở mỗi thời đại khác nhau sẽ nảy sinh sức ảnh hưởng khác nhau. Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, với sự nỗ lực của các nhà sáng tác nghệ thuật trải qua hàng trăm năm, Hồn Trương Ba da hàng thịt (hay Trương đồ nhục) đã trở thành viên ngọc sáng lạn trong lịch sử sân khấu Việt Nam.

N.T.T.V
(TCSH361/03-2019)

-----------
1. Lê Ngọc Cầu (1980), Tuồng hài. Trương đồ nhục (Theo bản sưu tầm được ở Huế, do nghệ nhân  La Cháu sao lục). Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr 278.
2. Kịch bản Trương đồ nhục (kịch bản Chèo, khuyết danh). Thư Viện Trường Đại học Sân khấu - Điện  ảnh Hà Nội, tr 6.
3. Kịch bản Trương đồ nhục (kịch bản Chèo, khuyết danh). Thư Viện Trường Đại học Sân khấu - Điện  ảnh Hà Nội, tr 7.  






 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN THANH TÚ"...Phim Dòng Sông Phẳng Lặng (DSPL) không chỉ là tác phẩm nghệ thuật mang tính sử thi ngợi ca chủ nghĩa anh hùng Cách mạng của quân và dân Thừa Thiên Huế (TTH) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mà tập trung hoàn thành bộ phim này nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày TTH và miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc làm đó còn là nghĩa cử của người đang sống đối với những liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì hòa bình độc lập dân tộc ở mảnh đất này". Đó là phát biểu của đồng chí Hồ Xuân Mãn - Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh ủy tỉnh TTH tại cuộc họp bàn công tác sản xuất phim DSPL mà nhà văn Tô Nhuận Vỹ đã kể cho tôi nghe.

  • VI THUỲ LINHHollywood, kinh đô điện ảnh (ĐA) thế giới, là mơ ước, đích đến của nhiều nước. Việt Nam, được xếp hạng thuộc “thế giới thứ ba” cả về kinh tế và vị thế điện ảnh, vừa có mặt ở đây, một đoàn 13 nhà ĐA, hào hứng và quyết tâm để học. Vậy ở kinh đô ấy, họ đã nhận thấy điều gì?

  • VĨNH NGUYÊN...Ngọc Tranh sinh năm 1932 ở làng Thọ Linh, Quảng Sơn, Quảng Trạch, Quảng Bình. Cha mất sớm, ở với mẹ và bà nội. Tuy là con cưng nhưng sau những buổi đi học về là cắt cỏ, chăn trâu giúp đỡ gia đình, bởi vùng đất chỉ hai mùa khoai - lúa, mất mùa, bà con sống bằng nghề mây tre, lá nón trên rừng...

  • VŨ HÀSuốt mười ngày đêm (từ 3.5 đến 13 tháng 5 năm 2003) trên sân khấu Nhà hát Trưng Vương thành phố Đà Nẵng, hơn 500 nghệ sĩ, diễn viên của 12 đơn vị nghệ thuật từ Thanh Hoá tới Khánh Hoà đến tham gia Liên hoan khu vực đã ra mắt 12 vở diễn phong phú các sắc màu, giọng điệu tươi mới nồng nàn, làm nên gương mặt sân khấu của những năm tháng này...

  • ĐẶNG NHẬT MINH                (Trích hồi ký)...Bộ phim là sự thể hiện của tài năng chân chính và sự giàu có nội tâm... Chúng tôi đã chứng kiến hàng loạt những nhận xét cảm động về bộ phim kể cả từ phía khán giả đại chúng. Bộ phim đã giành được uy tín rất cao trong lòng hàng loạt khán giả, kể cả chuyên gia điện ảnh và truyền hình lẫn các giới chức ngoại giao và những người khác...

  • ĐẶNG NHẬT MINH                    (Trích hồi ký)Sau khi đi thực tập về điện ảnh một thời gian ngắn ở Paris về, tôi bắt đầu viết kịch bản Cô gái trên sông mà tôi đã có ý định từ trước như một món nợ tinh thần đối với xứ Huế, quê hương tôi. Cô gái trong kịch bản chính là cô gái trong bài thơ của nhà thơ Tố Hữu: Tiếng hát sông Hương. Cô gái đó tượng trưng cho nhân dân khổ đau hy vọng vào một ngày mai tươi sáng, hết lòng che chở cho cách mạng. Nhưng khi thành công rồi thì một số người đã quay lưng lại với họ.

  • LTS: Kỷ niệm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam (15/3/1953) khai sinh cho nền điện ảnh dân tộc, SÔNG HƯƠNG xin giới thiệu với bạn đọc ba chương (chương III, IV, X) trong cuốn Hồi ký Điện ảnh của đạo diễn Đặng Nhật Minh. Qua những dòng hồi ký này bạn đọc sẽ biết được trong hoàn cảnh nào Đặng Nhật Minh đã trở thành đạo diễn điện ảnh, những bước đi đầu tiên của anh trong lĩnh vực này... và như anh đã viết trong lời nói đầu của cuốn hồi ký: ..."nếu gạt bỏ đi những cái chủ quan của người viết (mà chắc là không tránh khỏi) vẫn còn lại cái gì đó hữu ích đối với những ai muốn tìm hiểu đôi chút về một thời làm phim ở nước ta".                                                                SH

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGNhững năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước tôi có dịp ra thăm hậu phương lớn miền Bắc cùng đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng khu Trị Thiên. Tôi gặp kịch tác gia Hồ Ngọc Ánh trong hội nghị tập huấn về sân khấu tại 51 Trần Hưng Đạo do đạo diễn Đình Quang hướng dẫn.

  • NGÔ MINHTôi đã xem một số bộ phim của anh và đã gặp anh mấy lần ở nhà anh Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tôi thấy lúc nào anh cũng nói chuyện từ tốn, rỉ rả kiểu Huế. Trên Tạp chí Sông Hương tôi cũng đã đọc mấy đoạn hồi ký của anh viết về sự lận đận xung quanh những bộ phim. Mới đây nhà văn Trần Thùy Mai lặng lẽ đưa cho tôi cuốn “Hồi ký điện ảnh”(*) của Đặng Nhật Minh, bảo: “Đọc đi, được lắm”. Thế là tôi đọc một mạch... Những trang hồi ký đã giúp tôi hình dung 30 năm làm phim vất vả của một nghệ sĩ tài năng. Hồi ký... do đạo diễn Mai Lộc viết “Lời giới thiệu” và nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết lời bạt: “Đặng Nhật Minh- Người kể sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh”.

  • LÂM TÔ LỘCCách mạng tháng Tám tạo bước ngoặt lịch sử cho nghệ thuật múa Việt vốn có truyền thống từ lâu đời. Di sản múa các dân tộc ở ba miền Bắc Trung Nam với ba hình thái (múa dân gian, múa tôn giáo, múa cung đình) đã từng bước được phục hồi và phát triển, kể cả dòng nghệ thuật múa mới ở các vùng đô thị lớn. Thời kháng chiến chống Pháp hầu hết những người hoạt động múa trước cách mạng tháng Tám đều tham gia kháng chiến.

  • HỒ NGỌCTrong đời sống, nhiều khi vì quá quen thuộc với một sự kiện, một hiện tượng nào đó, ta thường ít để ý đến nó, hơn thế nữa càng không có yêu cầu nhìn lại để xem nó có những điểm nào không còn thích hợp, cần có sự thay đổi... Sân khấu chúng ta hiện cũng có tình trạng tương tự.

  • NGÔ HÙNG SƠN(Kịch vui)NHÂN VẬT- Giám đốc- Bích Hường: Người tình của Giám đốc- Người đàn bà: Vợ phó giám đốcChuyện xảy ra tại Văn phòng Giám đốc

  • NGUYỄN NGHĨA NGUYÊNChúng tôi xem qua vô tuyến truyền hình nên nhìn đi mà không được nhìn lại, ấy thế mà tiết mục đã để lại ở chúng tôi một ấn tượng sâu sắc.Các nghệ nhân như những nàng tiên hai bàn tay cặp hoa đăng uốn lượn vẽ ra một dải Ngân Hà trong một ánh sáng và tiếng nhạc cung kính, trang nghiệm gợi ra một cảm giác xa xưa của một thời vang bóng.

  • ĐẶNG NHẬT MINHTháng 2 vừa qua, trong sinh hoạt điện ảnh Trung Quốc đã diễn ra một sự kiện đặc biệt thu hút sự chú ý của mọi người: cuộc gặp mặt của sinh viên khoá 82 Trường Đại học Điện ảnh Bắc Kinh.

  • VĂN CẦM HẢI thực hiệnLTS: Nhà phê bình điện ảnh Trung Quốc Lý Thụy Anh đã đánh giá rất cao đạo diễn Đặng Nhật Minh qua bài viết "40 năm phim truyện Việt ". Nhiều giải thưởng lớn trong nước và quốc tế từ thập kỷ 70 đến nay (gần đây nhất là giải Bông sen vàng liên hoan phim truyện Việt lần thứ XIII) cũng đủ minh chứng cho điều đó. "Nó không chỉ đem lại danh tiếng cho ĐAVN mà quan trọng hơn là giúp cho công chúng quốc tế biết đến ĐAVN". Sông hương xin trân trọng giới thiệu trích đoạn cuộc trò chuyện giữa đạo diễn Đặng Nhật Minh và nhà văn Văn Cầm Hải nhân dịp ông về thăm nhà vào những ngày sắp bước sang xuân mới.

  • Nếu ta không làm được như sân khấu kinh kịch Trung Quốc thì cũng học tập chút ít kinh nghiệm của bạn xây dựng cho mình