ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
Ảnh: internet
1. Phê bình kí hiệu học - đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ1 của Lã Nguyên [La Khắc Hòa] tập hợp các bài viết sử dụng tập trung phương pháp phê bình kí hiệu học vào nghiên cứu văn học Việt Nam2. Với 14 bài viết về các vấn đề lịch sử, tác giả, tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam, đây thực sự là một cuốn sách hấp dẫn, không chỉ ở phương diện sử dụng tương thích phương pháp nghiên cứu mới, mà qua đó, còn giúp bạn đọc có được những hiểu biết mới về những vấn đề văn học đã trở nên thân thuộc. “Hành trình tái thiết” ngôn ngữ văn học Việt Nam của Lã Nguyên, như vậy, hứa hẹn những hồi ứng tri thức trong bối cảnh nghiên cứu văn học ở Việt Nam hiện nay đang dần chuyển dịch sang hướng tiếp cận văn hóa học.
2. Ngoài phần Phụ lục dịch bài viết giới thiệu về trường phái kí hiệu học văn hóa Tartu-Moskva (là hướng nghiên cứu mà tác giả chịu ảnh hưởng) của Iu.M. Lotman: Kí hiệu học văn hóa ở trường phái kí hiệu học Tartu-Moskva; bài viết Kí hiệu học và phê bình văn học của chính tác giả để thay Lời nói đầu và bài viết Lã Nguyên và phê bình kí hiệu học của GS.TS. Trần Đình Sử thay cho Lời bạt, sách được bố cục làm hai phần: “Tiếng nói thời đại” tập hợp 6 bài viết về các vấn đề của lịch sử văn học Việt Nam hiện đại; và “Ngôn ngữ tác giả” tập hợp 8 bài viết về một số tác giả, tác phẩm văn học như là các trường hợp đại diện của giai đoạn văn học này. Sợi chỉ gắn kết hai phần, thậm chí đan dệt thành bức khảm văn học Việt Nam hiện đại, là sự thống nhất đi tìm hình tượng kí hiệu - loại “kí hiệu siêu lời nói, siêu ngôn ngữ học” (tr.8) ẩn giấu trong các văn bản văn học. Khi nhà phê bình tìm thấy và hệ thống các hình tượng kí hiệu này trong một kí hiệu quyển - ở đây là không gian văn học nghệ thuật như là “nơi lưu giữ, truyền đạt và sáng tạo thông tin” (tr.6) qua trung gian ngôn ngữ - tiếng nói (thời đại) và điệu giọng (nhà văn) sẽ được tái hiện. Điều này làm phát lộ tư tưởng nghệ thuật trong sáng tác văn học qua các hình thức biểu hiện cụ thể - cảm tính của nó, cũng đồng thời cho thấy vị trí của sáng tác văn học trong mạng lưới cấu trúc các tiến trình văn học, các phong cách nghệ thuật, hay làm bật hiện bản chất thẩm mĩ của thời đại, tác giả, tác phẩm văn học.
3. Lã Nguyên trước hết là một nhà nghiên cứu có thế mạnh ở việc “tái thiết” các tiến trình văn học. Tiểu luận độc đáo được Lã Nguyên tiếp cận theo hướng kí hiệu học văn hóa - “Nhìn lại những bước đi. Lắng nghe những tiếng nói (Về văn học Việt Nam thời đổi mới 1975 - 1991)” - ngay ở lần đầu tiên công bố trong hội thảo “Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy” (Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức, 2005), đã được tán thưởng nhiệt liệt khi ông so sánh tiếng nói, giọng nói của văn học Việt Nam trước và sau 1975, trong cách ông chỉ ra “có một giọng nói rất to thống ngự trong văn học Việt Nam già nửa thế kỉ” (tr.98) nếu tính từ dấu mốc 1945: ở nền văn học sử thi trước 1975, tiếng nói ấy đại diện cho tư tưởng quốc gia, và vì mang âm hưởng lãng mạn cách mạng nên “giọng nói to” ấy tìm thấy phương thức thể hiện tương ứng là “tiếng hát hùng tráng”, theo đó mà thơ trữ tình trở thành thể loại chính trên sân khấu văn chương, nơi Tố Hữu trở thành “lá cờ đầu”; ở nền văn học thế sự sau 1975, tiếng nói ấy biểu hiện cho tâm trạng đại chúng, và vì mang khát vọng đổi mới xã hội đang trên đà phân hóa, khủng hoảng, đòi hỏi phải đổi thay, sự phong phú, đa dạng ấy khiến cho “giọng nói to” tìm thấy phương thức thể hiện tương ứng là “tiếng cười trào tiếu, giễu nhại”, khi văn học thế sự đề cập đến những mảng khuất tối mà văn học sử thi trước kia gác sang một bên, theo đó mà văn xuôi tự sự trở thành thể loại chiếm ưu thế, với hàng loạt các tác giả bút ký, phóng sự, tiểu thuyết tư liệu, đến các sáng tác hư cấu.
Song bên cạnh đó còn có “giọng nói nhỏ” mà Nguyễn Huy Thiệp là một đại diện quan trọng. Cái “giọng nói nhỏ” mà Nguyễn Huy Thiệp cất lên, theo đó mà tạo thành “bước ngoặt của văn học Việt Nam sau 1975” (như tên một bài viết quan trọng khác trong cuốn sách, tr.286 - 318), là bởi nhà văn đã không đặt mình trong không gian rộng lớn của các “mặt trận” chiến đấu “giữ và dựng nước”, mà khiêm nhường đặt mình vào trong “không gian sinh hoạt thường ngày”. Chính việc lựa chọn không gian mới mẻ này đã khiến cho tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp mang dấu chỉ của “bước ngoặt hệ hình ngôn ngữ”, chuyển từ “hệ hình huyền thoại” của ngôn ngữ “nhà binh” trong văn học cách mạng trước kia sang “hệ hình truyện kể” của ngôn ngữ “tiểu thuyết” trong văn học thế sự đời tư sau này. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, vì thế, mở ra hướng tiếp cận mô hình không gian khép kín, phân mảnh, xóa bỏ trật tự tôn ti, đề cập nhiều đến sự khuyết thiếu, tai ương, sự tha hóa, cái xấu, cái ác, dục vọng, tăm tối,… trong sáng tác của thế hệ nhà văn sau Đổi mới (1986).
Như vậy là, khi “lắng nghe những tiếng nói”, Lã Nguyên đã thấy được những bước đi của văn học Việt Nam sau 1975: ở đoạn khởi động mười năm đầu, 1975 - 1985, văn học chịu tác động của văn học dịch để thúc đẩy các quá trình chuyển đổi; ở đoạn cao trào, 1986 - 1991, văn học đổi mới trên tất cả các bình diện của lí luận phê bình, tự sự phi hư cấu và hư cấu nghệ thuật theo hai hướng, có thể ước lệ gọi là phản sử thi và hậu hiện đại; sau 1992, văn học tiếp tục chuyển mình bằng cách đổi mới lối viết, từng bước thu hẹp khoảng cách tư duy nghệ thuật với các nền văn học tiên tiến khác, khi nhà văn tái nhận thức về “vị thế của văn học trên sân chơi văn hóa” (tr.63), và ý thức sâu sắc hơn các vấn đề “quốc tế và bản địa, cách tân và truyền thống” (tr.115) trong sáng tạo văn học nghệ thuật.
Tuy nhiên, đóng góp lớn nhất của Lã Nguyên trong việc tái thiết các tiến trình văn học phải nằm ở các tiểu luận nhận thức về văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ tiểu luận đầu tiên được viết dịp “50 năm sau cách mạng tháng Tám 1945” (Diện mạo văn học Việt Nam 1945 - 1975 - nhìn từ góc độ thi pháp thể loại) đến các tiểu luận gần đây nhất, mà đáng chú ý hơn cả là Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa như một hệ hình giao tiếp nghệ thuật (2011) và Nguyên tắc vẽ tranh, tạc tượng đài và chủ nghĩa hiện thực thị giác trong văn học Việt Nam trước 1945 (2014), Lã Nguyên đã phác dựng mô hình giao tiếp nghệ thuật của một trào lưu thống soái văn học Việt Nam gần hết nửa sau thế kỉ XX. Giữ vị thế ưu trội, cầm nhịp cho các hoạt động giao tiếp nghệ thuật là người chiến thắng - chủ nhân của xã hội mới, chủ thể lời nói của các văn bản nghệ thuật. Nhìn từ hình tượng nhân vật như thế, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là thế giới của bốn loại hình tượng kí hiệu: người cha - lãnh tụ anh minh, người mẹ - tổ quốc vĩ đại, chúng con - chiến đấu anh hùng và kẻ thù - bầy thú man rợ. Mọi nguyên tắc giao tiếp, mọi câu chuyện văn học đều hoạt động dưới định chế siêu ngôn ngữ này. Theo đó, nhìn từ hệ hình giao tiếp nghệ thuật, Lã Nguyên nhận thấy “tiếng nói văn học biến cuộc đối thoại tay ba tác giả - nhân vật - người đọc, - vốn là chuyện tư tưởng, chỉ diễn ra trong thế giới nội tâm của những chủ thể tự do, - thành dàn đồng ca “Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát”, hoặc chuyển đối thoại ra cái nhìn bên ngoài, hướng tới một hiện thực thị giác được khắc họa theo nguyên tắc dựng tượng đài, đâu đâu cũng là thành đồng vách sắt, rất đỗi kì vĩ” (tr.39); và nhìn từ phong cách, “lại có thể gọi văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa hiện thực thị giác” (tr.53) theo quy phạm phân vai vẽ tranh, tạc tượng đài trong diễn ngôn của trào lưu văn học này.
4. Sức hấp dẫn của ngòi bút phê bình Lã Nguyên còn đến ở cách thức ông “tái lập” phong cách nghệ thuật nhà văn. Các bài viết về Tố Hữu, Nguyễn Huy Thiệp đã nhắc đến ở trên, đặc biệt là bài viết về Nguyễn Tuân, là những ví dụ xuất sắc cho việc bộ công cụ mới (ở đây là kí hiệu học văn hóa) đã làm sống lại, làm khác, và nổi bật ngôn ngữ nghệ thuật của các nhà văn, chỉ ra một cách xác đáng và hấp dẫn đặc trưng thẩm mĩ trong các sáng tác của họ. Tập trung vào văn học xã hội chủ nghĩa, với trường hợp Tố Hữu, Lã Nguyên đã phân tích một cách thuyết phục cách thức tạo lập “chủ nghĩa hiện thực thị giác” của nền văn học này qua việc chủ soái của nó là Tố Hữu tổ chức “chiến lược diễn ngôn”, lựa chọn “ngôn ngữ thế giới quan” và sử dụng “các mô thức tu từ” để biến thơ ca của mình trở thành điển phạm, mô phạm cho các tác giả khác “học tập”. Ở một trường hợp đối trọng là Nguyễn Tuân, cũng cùng một cách thức “từ hiện đại tìm về truyền thống” như tư duy nghệ thuật của Tố Hữu, nhà văn này lại lựa lọc lấy các phạm trù “kì - quái - chí - tuyệt” của nghệ thuật từ chương cổ điển phương Đông để tạo lập điển phạm không thể bắt chước, làm nên một “cái tôi ngông nghênh” giữa nhân quần vô sản mà không bị hạ bệ, làm cho khó dễ. Trong khi, như đã chỉ ra ở trên, lựa chọn không gian sinh hoạt thường ngày và bút pháp mới phi truyền thống, Nguyễn Huy Thiệp khi vừa xuất hiện đã nhận ngay được lời động viên/ cảnh tỉnh của Hoàng Ngọc Hiến: “tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió”3. Hai bài viết của Lã Nguyên về Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn Huy Thiệp và bước ngoặt của văn học Việt Nam sau 1975; Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài) trong cuốn sách giải mã giúp người đọc nguyên nhân dẫn đến những bất tương thích trong tiếp nhận tiếng nói và điệu giọng riêng có của nhà văn độc đáo này.
Làm mới nhưng không đứt đoạn với truyền thống thi pháp học, các phân tích/ đọc sâu văn bản dưới ánh sáng của kí hiệu học diễn ngôn và thi pháp học lịch sử đã giúp Lã Nguyên mô tả một cách thống nhất ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác cá nhân và ngôn ngữ nghệ thuật của thời đại mà nhà văn ấy thuộc về. Hiểu về tác giả hay tác phẩm cụ thể, vì thế, góp phần hiểu sâu hơn đặc điểm lịch sử văn học giai đoạn; và ngược lại, hiểu về loại hình diễn ngôn văn học từng thời kì, cũng giúp cho việc “tái tạo” đặc trưng thi pháp nhà văn.
5. Nhìn văn học như một “hệ hình giao tiếp nghệ thuật”, Lã Nguyên đã chủ động đề xuất các giả định khoa học “nhằm vào việc tái cấu trúc các hệ thống ngôn ngữ đặc thù làm nên các loại hình diễn ngôn trong văn học nghệ thuật của một giai đoạn lịch sử và trong sáng tác của một số nhà văn, nghệ sĩ” (tr.10). Kết quả của công việc này, qua các bài viết trong tập sách, không chỉ rọi những ánh sáng mới mẻ vào việc tìm hiểu chuyên sâu về lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, mà ở phương diện đại chúng hơn, cho thấy sức hấp dẫn mời gọi và các khả thể mà văn học và các cách thức đổi mới lối tiếp cận có thể đem lại cho sự thụ hưởng nghệ thuật của người đọc. Có thể chính vì hiệu quả sâu rộng này mà GS.TS. Trần Đình Sử đã đánh giá rất cao cuốn sách và nỗ lực học thuật của tác giả: “Mặc dù kí hiệu học đã được giới thiệu và ứng dụng vào Việt Nam từ những năm 70 thế kỉ trước, song phải đến Phê bình kí hiệu học - đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ của Lã Nguyên, chúng ta mới có thể coi là một thành quả đáng kể của việc vận dụng lĩnh vực tri thức này vào nghiên cứu văn học, nghệ thuật Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành và triển vọng của ngành nghiên cứu kí hiệu học nước nhà” (tr.399), đồng thời vì đó mà “tin tưởng rằng khuynh hướng này sẽ nhanh chóng được bắt rễ, lan tỏa trong nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam, làm cho bức tranh nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam thêm nhiều màu sắc” (tr.405).
Đ.A.D
(TCSH365/07-2019)
Chú thích:
1. Lã Nguyên: Phê bình kí hiệu học - đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ. Nxb. Phụ nữ, H., 2018, 408 trang. Các trích dẫn trong bài viết đều theo sách này.
2. Trước công trình thực hành nghiên cứu này, Lã Nguyên đã có nhiều năm dịch và giới thiệu lí thuyết văn học phương Tây hiện đại và lí thuyết kí hiệu học. Xem Nhiều tác giả: Lí luận văn học - những vấn đề hiện đại (Lã Nguyên tuyển dịch), Nxb. Đại học Sư phạm, H., 2012; tái bản có bổ sung 2017; Yu. Lotman: Kí hiệu học văn hóa (Lã Nguyên, Trần Đình Sử, Đỗ Hải Phong dịch), Nxb. Đại học Sư phạm, H., 2014; tái bản 2015. Một nhận thức về lịch sử các vấn đề lí thuyết văn học và sự du hành của nó tới Việt Nam, cũng được Lã Nguyên trình bày trong một công trình đồ sộ vừa mới được xuất bản: Số phận lịch sử của các lí thuyết văn học, Trung tâm Kinh doanh Xuất bản và Phát hành sách thuộc Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội và Nxb. Phụ nữ, H., 2018.
3. Hoàng Ngọc Hiến: “Lời giới thiệu: Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió”, trong Nguyễn Huy Thiệp: Tướng về hưu, Tuần báo Văn nghệ và Nxb. Trẻ, H. - Tp.HCM.,1988, tr.5-12.
NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.
CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.
NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.
PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)
TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.
NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.
NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.
TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.
THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.
HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.
TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.
INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.
TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.
HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.
VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.