Dị mộng

08:47 16/12/2019

TRẦN BĂNG KHUÊ   

1.
“Tôi đảm bảo câu chuyện mà tôi sắp kể đây hoàn toàn bắt đầu bởi một giấc mơ. Một giấc mơ kỳ quặc, chúng là những bức tranh lạ lẫm không đầu không cuối, không hề có bất kỳ sự kết nối nào”.

Mịnh họa: Nguyễn Thiện Đức

Tôi đã rất tự tin viết như thế trong giấc mơ của mình. Nhưng khi đó tôi vẫn không tài nào tỉnh giấc, không thể mở mắt ra để tạo lập những mảnh ghép hòng hình thành nên câu chuyện hoàn chỉnh. Hẳn vậy mà giấc mơ vẫn chỉ là giấc mơ. Chẳng còn gì khác ngoài một sự rời rạc trong tầm truy soát của tôi về nó, về những thếp màu biến hóa và sống động. Hệt như một cuộc phiêu lưu mà tôi mong muốn được trải nghiệm, nhưng cũng rất hãi sợ, đầy nỗi e ngại, đã từng khiến tôi phải trốn nấp trong bốn bức tường màu trắng quen thuộc.

Tôi đã từng nghĩ, “mọi thứ người ta thấy trong mơ sẽ tan thành cát bụi”. Nhưng không, tôi biết, “nó được lưu dấu lại ở một chiều không gian khác, lúc ẩn lúc hiện, lúc sương khói mịt mùng, khi rõ rệt như một tòa thành cô độc đã cũ”.

Đôi khi tôi vẫn cả quyết, cố chấp tìm kiếm giấc mộng ấy. Thật là quỷ dị. Tôi chọn cái tên “quỷ dị” để đặt cho câu chuyện mà tôi nằm mơ thấy. Nhưng khi tỉnh dậy chỉ với một con mắt, tôi lại gọi nó bằng cái tên khác, mỹ từ khác lưu loát hơn là “dị mộng”. Ngặt một nỗi, mỗi hình ảnh dị mộng của tôi lại rời rạc, chắp vá và mờ nhạt trong toàn bộ bức tranh đến tội nghiệp. Sau đó, chúng dần dần tan biến mất, hoặc chỉ còn sót vài dấu vết loang lổ, từ dị mộng mở cho tới dị mộng kết.

Thứ mà tôi luôn nằm mơ thấy, bức tranh đầu tiên là những ngọn sóng bạc nấp sau hàng dương xanh rì rào của quê nội. Trong đêm tối, biển sẽ có màu đen. Hoặc thi thoảng lấp lánh ánh sáng bạc thanh khiết, an lành của trăng. Biển là hình ảnh đầu tiên kết nối tôi trở lại với giấc mơ. Biển khá lặng lẽ. Nhưng, vẫn có thể đang nổi sóng ngầm dưới đáy một con tàu lớn. Tôi nghe tiếng con tàu gầm thét ra lệnh cho biển, cho gió, cho những con người xiêu vẹo trên ấy, cho tất thảy những con tàu nhỏ bé hơn ở xung quanh hãy dạt qua một bên để nó rẽ sóng tiến về phía trước.

(chẳng biết phía trước có những gì? hẳn là một giấc mơ, hoặc không?)

Tôi rất sợ đánh nhau. Hồi bé, tôi nhớ mỗi lần bị các bạn to xác hơn ở trên lớp bắt nạt, tôi đều câm nín. Tôi không thể đánh lại kẻ to xác ấy. Tôi cũng không thể lớn tiếng với kẻ to xác ấy. Tiếng của tôi rất nhỏ. Giọng của tôi rất bé. Vậy là, tôi phải đợi cho hết giờ học, sau đó lủi thủi ra về trong uất ức. Mặt tôi luôn bị lem luốc bởi nước mắt hòa với màu mực viết. Thậm chí chúng còn lấm cả xuống áo, xuống váy. Nhưng, như thế có là gì, tôi sợ nhất, ám ảnh nhất vẫn cái trò khẽ vào tay, quất vào mông bằng cây thước gỗ to và dài của cô giáo những năm học tiểu học. Tôi không tưởng tượng ra được, bàn tay của tôi khi ấy bé nhỏ ra sao? Tôi tò mò về hình ảnh của mình trong một loạt ký ức thời thơ ấu. Đó chắc hẳn là những thước phim quý giá. Mọi dấu vết đều được lưu lại rất rõ rệt.

Nhưng, lúc này, tôi không cho phép mình nhớ thêm nữa về khoảng thời gian ấu thơ. Tôi nhớ ra rằng, tôi đang phải tham gia cuộc chiến. Cuộc chiến diễn ra rất rõ rệt. Trong một giấc mơ. Dù rằng tôi rất sợ đánh nhau. Tôi sợ nhìn thấy máu. Tôi sợ nhìn thấy các thi thể. Tôi sợ những bãi chiến trường ngổn ngang trộn lẫn xương thịt và bụi đất mà người lớn kể lại thời loạn lạc.

Con tàu lớn của tôi đã bắt đầu rẽ sóng một cách dứt khoát để tiến về phía trước. Tiếng súng đầu tiên đã nổ. Tiếng súng tiếp theo. Hàng loạt âm thanh vang dội khắp nơi. Những đồng đội của tôi đang ngã xuống. Nằm im bất động. Tôi biết, chẳng thể có điều gì tốt đẹp từ những cuộc chiến. Dị mộng mở đầu của tôi là một hoạt cảnh hiên ngang khi tham chiến. Nhưng, mảnh ghép dị mộng này ám ảnh tôi, níu lấy tay tôi, không cho phép tôi được rời khỏi cuộc chiến trong mơ để tỉnh giấc, quay về với thực tại dưới bầu trời yên ắng chỉ còn lại tiếng côn trùng rỉ rả.

2.

Đêm xuống. Rất yên tĩnh. Nơi này, chỉ có tiếng tàu điện ngầm chạy qua chạy lại ở ga tàu gần tòa nhà tôi trọ. Chẳng còn âm thanh nào khác ngoài tiết tấu gấp gáp trong một bộ phim hành động hoặc thi thoảng có cả tiếng rên rỉ sung sướng của cặp đôi nào đó từ căn phòng kế bên.

Tôi đọc sách. Chồng tôi lướt web, xem tin tức bóng đá tổng hợp hoặc tiếp tục với cái luận án dang dở. Sự yên lặng ở đây vào lúc này, khiến tôi cảm thấy xa lạ. Tháng mười là của mùa xuân. Chúng chỉ mới hân hoan bừng nở những bông hoa vàng trên cỏ xanh mà tôi thấy. Nhưng, tôi đã kịp mường tượng đến mùa hè. Những mùa hè ấm áp, tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Mùa đông vẫn ám ảnh tôi. Ở quê nhà, hẳn là đã bắt đầu rét. Rét lắm. Tôi không biết những người mẹ của chúng tôi, những đứa trẻ nghèo miền núi liệu có đủ áo ấm để mặc không? Tôi chẳng dám gọi điện về. Mỗi lần gọi, cả chồng tôi và tôi đều cảm thấy hổ thẹn vì việc chúng tôi rời đi đến một nơi xa xôi. Chúng tôi vẫn là những đứa con ham mê giấc mộng trẻ tuổi.

Tôi nhớ, tháng mười năm ngoái, khi mùa xuân vừa rời khỏi nơi tôi đang sống thì tháng mười hai ở quê nhà, mùa xuân lại bắt đầu đến. Tôi muốn “đi tìm thời gian đã mất” trong lúc tỉnh táo, không phải mơ. Những giấc mơ quỷ dị. Tôi thả lỏng trí não, tôi bỏ “nước Mỹ” của Kafka xuống, và quay sang hỏi anh ấy vu vơ: “lâu rồi không nghe tiếng chó sủa nhỉ?” Chồng tôi gật gù, “ý tưởng rất thú vị”. Hóa ra, tiếng chó sủa có thể hiểu theo nhiều chiều ẩn. Tiếng chó sủa với tôi lúc này, chỉ đơn giản là một thứ âm thanh gần gũi thân thuộc từ những tháng ngày thơ ấu đối với bất kỳ ai.

Sau này, ánh sáng tràn đầy mặt đường, tiếng chó sủa trong đêm vẫn còn văng vẳng. Nhưng, tôi luôn ngờ vực hai trạng thái kì quặc trong giấc ngủ của tôi khi nghe tiếng chó sủa. Chúng khá lạ lẫm. Tôi vừa cảm thấy an tâm, hệt như đó là sự bảo vệ chắc chắn cho giấc ngủ của tôi, vừa cảm thấy sợ hãi, lo lắng, hẳn trong bóng tối (và kể cả ánh sáng) nữa đã có thứ gì đó xấu xa xảy ra. Những kẻ trộm đêm chẳng hạn. Hoặc những kẻ giết người. Tôi có vẻ đã nghĩ hơi quá rồi. Những kẻ giết người thường bất chấp thời gian. Chúng sẽ hành động khi nào chúng muốn. Hoặc là, những kẻ trộm chó. Thời ấy, (bây giờ vẫn vậy), chó thường bị đánh bã, rồi bắt trộm. Nhà tôi, cũng phải mất vài thành viên như thế. Nuôi chó để giữ nhà, làm bạn. Chẳng ai nuôi chó để thịt bao giờ. Cha tôi, anh tôi, vài bận mở mắt trừng trừng qua màn đêm sâu trong bóng tối để canh bắt kẻ trộm chó. Có một dạo, cả nhà tôi thức trắng đêm để súc ruột cho con mực. (Mực là tên một chú chó có bộ lông đen tuyền của gia đình tôi thời đèn dầu). Mực sống sót qua đêm đó.

Sau này, nhà tôi vẫn rất thèm nuôi chó, nhưng mỗi lần mất một thành viên như thế, bởi bọn trộm chó, nhà tôi khá chán nản. Mẹ tôi lúc nào cũng khóc sưng mắt khi sáng hôm sau chẳng thấy con chó mình nuôi và yêu thương đâu nữa. Bẵng đi một thời gian, không nuôi bất cứ con gì, mẹ tôi thấy buồn, lại tiếp tục xin chó nhà người ta đẻ về nuôi. Năm tôi chưa rời khỏi nhà để sang xứ người, tôi chăm một con chó lai giống becgie. Nó lớn rất nhanh. Trổ mã, trổ giò, phổng phao như một thanh niên bảnh chọe nhất xóm. Các bác xung quanh hễ thấy nó lon ton ngoài ngõ lại nhắc nhở, cẩn thận không thì bị hốt đấy. Dạo này, bọn trộm chó lượn vào cả ban ngày. Chúng chẳng đợi tới đêm tối, lén-rình-mò để câu trộm. Có hôm, nó hẹn hò với bạn gái, tôi thức trắng đêm, đợi cửa. Khi tôi rời đi, chưa đầy vài tháng, mẹ tôi nói, chàng thanh niên lai becgie nhà tôi đã mất tích.

Đêm nay, tôi thèm nghe tiếng chó sủa. Lại nhớ giọng ồm ồm của Coca. Tôi không dám mường tượng về cái chết của Coca. Bóng tối và cái ác đồng hiện. Sự đau đớn, mất mát cũng thế. Tôi không thích thói phàm ăn tục uống của con người. Chúng thường đi quá giới hạn cho phép. Chúng dẫn đến việc tồn tại của cái xấu, cái ác. Chồng tôi bất giác quay sang hỏi tôi: “đánh chết kẻ trộm chó thì có phải là xấu và ác không?” Tôi im lặng.

Tôi đau đớn khi nghĩ về chú chó mà tôi đã chăm bẵm từ bé cho đến lớn. Tôi vẫn thèm nghe tiếng chó sủa lúc này. Bóng tối đã phủ xuống. Cái xấu và cái ác còn ẩn nấp đâu đó. Tôi đang tỉnh táo. Không có những giấc mơ nào khác để kể. Nhưng cuộc chiến trong dị mộng trước dường như vẫn còn dở dang thì phải? Tôi nghĩ, tôi phải quay trở lại chiến trường đó, trên con tàu lớn đó. Ấy vậy, lúc này đôi mắt tôi vẫn mở trừng trừng xuyên vào bóng tối, mơ mộng về những hiện cảnh đẹp đẽ khác, không phải là một cuộc chiến. Tôi nhớ ra một câu ngạn ngữ Tây Ban Nha, “The dogs bark, but the caravan goes on”. (Có nghĩa là, “mặc tiếng chó sủa, đoàn lữ hành vẫn tiếp tục bước”).

3.

Những ngày nắng gắt, ánh sáng là thứ tôi không tài nào chịu nổi. Chúng làm mờ mắt tôi, chúng khiến hai con ngươi của tôi nhức buốt. Chắc hẳn các thiết bị công nghệ đã làm tôi rơi vào cảnh huống này.

Buổi tối, trước giờ đi ngủ chính thức, tôi thường thả lỏng cơ thể và mắt bằng cách không làm gì cả, không đọc sách, không viết, không phim ảnh. Tôi chỉ nằm im, bất động, nhắm nghiền mắt lại rồi bắt đầu nhìn sâu vào bóng tối. Điều khá kỳ bí là tôi đã thấy rất nhiều thứ trong bóng tối. Một thế giới khác hoàn toàn hiện hữu dưới ánh sáng sắp đặt của vũ trụ. Bóng tối này, tôi tự mình điều khiển, tự mình nắm bắt sự hiện diện tồn tại của nó, của chính tôi. Chẳng hạn như lúc ấy, ngay cái thời điểm tôi rời bỏ những ánh sáng trắng sắp đặt cùng với ánh sáng xanh nhân tạo, tôi nhìn thấy thứ ánh sáng khác, chúng không nhạt nhòa loang lổ, chúng thực sự rất huyễn hoặc. Dị mộng lạ lùng này hiện thể dưới hình hài một chú chó không đầu, đang hớn hở nhảy từng bước về phía tôi, rồi biến mất. Hoặc tôi có thể nhìn thấy một vùng ánh sáng thanh khiết ấm áp, rõ ràng rất chan hòa yêu thương. Nhưng, ngay sau đó tôi lại thấy mình đang tiến về phía những bậc thang đi xuống, và chúng sâu hoắm như một vực thẳm.

Nỗi sợ hãi là một cảm giác thường trực mà tôi nghĩ tôi cần phải chiến đấu với nó rất nhiều kể cả khi tỉnh táo lẫn mê mộng. Tôi không nhớ bao nhiêu lần tôi chạy trong bóng tối, hoặc từ từ rơi sâu xuống vực. Tôi biết tôi rồi cũng sẽ chìm dần vào trạng thái mê mê tỉnh tỉnh kì quặc quen thuộc. Tôi mơ lại những giấc mơ cũ, về biển, về cuộc chiến không có tiếng súng, về cơn mê sảng với ký ức pháo sáng trên những ngọn đồi của bố chồng tôi trước khi ông mất.

Nhưng ngay sau đó, những giấc mơ kia bị cắt ngang, tôi bị đưa đẩy đến với một hiện cảnh khác, một câu chuyện khác.

4.

Cha chết.

Ngày cha chết, bức tranh “biển lặng” mà cha tôi thích treo trên tường, nơi cha thường đọc sách bỗng dưng hóa thành màu đỏ. Sóng bạc thành xám. Cát trắng thành đen như xỉ than. Tôi liếc vội bức tranh, kịp quan sát và nhận biết những thay đổi của nó. Tôi nhớ, cha thường nói, khi thấy tôi nhìn chằm chằm vào bức tranh mà không hề hỏi cha câu nào, “biển lặng nước rất sâu”. Ngoài bức tranh cha còn có một chiếc hộp nhỏ rất kì lạ mà cha thường xuyên khóa kín.

Cha không trăn trối, một lời cũng không. Cha ngậm chặt miệng, như khi còn sống cha vẫn ngậm chặt những hột thị vậy. Những đứa con lần lượt phủ phục dưới chân giường cha, lắng tai nghe tiếng sóng cuối cùng trong lồng ngực gầy gò xương xẩu không còn đập nhịp nữa. Đêm đó đầy bão. Mẹ vắt vành khăn lên nhìn ra ngoài cửa. Con bướm đen chấm bi trắng lượn qua lượn lại rồi mất hút. Bóng tối nhập nhòa với thứ ánh sáng của đèn, nến và hương trầm. Tôi rời khỏi chân giường cha, đến bên hộc bàn, nơi cha vẫn thường ngồi viết thứ gì đó trong những đêm không ngủ. Tôi phải tìm ra nó, tìm bằng được nó, rồi đưa đến bên cha, nói với cha trước ngày cha rời khỏi nhà tổ, nhà của nhiều thế hệ đã từng rời đi như thế để ra đồng với giun dế. Tôi phải tìm thấy nó, trước lễ an táng, hạ thổ.

Tôi quên mất cảm giác nghẹt thở buồn bã, hay là việc nhỏ lệ gào khóc quen thuộc như những cảnh tang tóc mất mát mà tôi biết, khi cha trút hơi thở cuối cùng. Tôi trâng trâng mắt nhìn cha qua khe cửa sổ gần giường cha nằm. Người ta không cho tôi đến gần cha. Người ta nói, vì cha thương tôi nhất.

Ngày đưa cha ra đồng. Trong đầu tôi chỉ quay cuồng một ý nghĩ. Tôi muốn tìm thấy thứ đó, thứ mà tôi biết cha đã để lại. Thứ mà cha vẫn giấu kín trong hộc bàn nơi cha làm việc. Nơi cha đọc sách và viết. Đó là thế giới riêng của cha.

5.

Một vài tia nắng hắt qua tấm rèm cửa sổ. Tôi mở mắt, tỉnh giấc. Chỉ là một giấc mơ. Tất cả đều là giấc mơ. Chúng lần lượt hiện bày thành các câu chuyện khác nhau. Chỉ có bức tranh là thật. Và dĩ nhiên, cha tôi vẫn còn tồn tại trên đời này, khoẻ mạnh, bình an. Đã lâu tôi không nói chuyện với cha, (vì một vài lí do riêng), nhưng tôi biết, cha vẫn thương tôi nhất.

Tôi khẽ liếc nhìn bức tranh “biển lặng” một người bạn vẽ tặng tôi vẫn im lìm thâu tóm lấy thứ ánh sáng bàng bạc lấp lánh của ngày mới. Tôi chợt nhớ ra, giấc mơ của tuần trước, về một gã đàn ông tôi không nhìn thấy mặt, lầm lũi dò dẫm từng bước trong đêm. Gã chỉ làm mỗi một việc là nhặt ánh sáng và bóng tối. Những dị mộng kỳ quặc, chúng luôn khiến tôi được trải nghiệm thêm một cuộc đời ở thế giới khác. Về gã đàn ông tôi không nhìn thấy mặt. Tôi đã có câu chuyện riêng dành cho hắn. “Kẻ nhặt linh hồn trong những giấc mơ”. Hẳn nhiên, mọi thứ mà tôi mơ thấy, chúng vẫn tồn tại đâu đó.

Lúc này, tôi không muốn nằm mơ. Bên ngoài cửa sổ, một chút ánh sáng bình minh le lói. Có tiếng chim hót, ngọt lành. (Không phải tiếng chó sủa). Ở đây, chưa bao giờ tôi nghe thấy tiếng chó sủa. Tiếng chim vẫn lảnh lót, ca mừng ánh sáng. Hóa ra, trong khi tôi chìm đắm vào những dị mộng, thì cuộc đời vẫn xinh đẹp rạng ngời dưới ánh sáng mặt trời buổi sớm.

T.B.K  
(TCSH369/11-2019)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VIỆT HÀCó một ngày rất âu lo đã đến với thằng béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi. Trước đấy hình như duy nhất một lần cái cảm giác bất an này cũng đã đến. Láng máng không thể nhớ.

  • MA VĂN KHÁNGKhi những người U Ní ở vùng biên sau mấy tháng trời đông giá, ngồi trong nhà đánh cuốc, sửa dao, đan lát bước ra khỏi căn nhà đất dày kín như cái kén, đặt chiếc vai cày lên cổ con trâu, đi những đường cày đầu tiên, hoặc rủ nhau đi bán công khắp các nơi trong vùng thượng huyện Bát Xát, thì hoa gạo bắt đầu nở.

  • PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!

  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.