OKAMOTO KIDO
Tác giả Okamoto Kido - Ảnh: wiki
Okamoto Kido (1872 - 1939), nhà viết kịch và tiểu thuyết gia, tên thật là Keiji. Sinh ra tại Takanawa - Tokyo, ông là con trai cả của Keinosuke - một quan chức dưới quyền của gia tộc lãnh chúa Tokugawa - làm việc tại tòa công sứ Anh Quốc. Từ nhỏ ông đã quen thuộc với kịch Kabuki và dưới ảnh hưởng của cha, cũng thông thạo tiếng Anh. Năm 1890 ông vào làm việc tại tòa soạn nhật báo Tokyo Nichi. Sau đó ông trải qua 24 năm làm phóng viên báo chí cho các tờ báo khác nhau. Trong khoảng thời gian đó, năm 1896 lần đầu ông công bố vở kịch (tạm dịch) “Tử Thần Điện”. Năm 1911 Kido trở thành một nhà viết kịch đại diện cho loại hình kịch Kabuki mới với sự thành công của một số tác phẩm. Từ năm 1913 ông dành hết tâm huyết cho các hoạt động sáng tác và để lại 196 vở kịch. Sau khi đọc được tiểu thuyết Sherlock Holmes của Conan Doyle, ông nảy ra ý tưởng viết truyện trinh thám lấy bối cảnh thời Edo, và từ năm 1916 ông bắt đầu viết tiểu thuyết trinh thám. Tác phẩm dưới đây được xuất bản lần đầu tiên năm 1920 do Nxb. Kokubundo Zihishincho ấn hành. Ichiro Nguyễn dịch và giới thiệu |
Đêm ở cánh đồng gai
1.
Câu chuyện của A.
Bạn tôi, Takatani, vừa trở về sau chuyến khảo sát Nam Dương. Cây gai dầu được sử dụng để làm quần áo lao động rất thịnh hành gần đây ở Nhật Bản không phải là cây bản địa. Chín phần là từ Manila. Tất cả các loại gai dầu sản xuất tại quần đảo Philippines đều được xuất khẩu ra khắp thế giới dưới cái tên Gai Dầu Manila. Takatani đến Nam Dương cũng với mục đích liên quan đến việc kinh doanh sản xuất gai dầu, anh đã dành hơn hai tháng chủ yếu để khảo sát về lĩnh vực này.
Quần đảo Philippines có rất nhiều đảo nhỏ, Takatani không nhớ hết tên từng đảo nhưng anh bảo rằng đâu đó gần hòn đảo có tên Solgo. Lúc Takatani xuống thuyền lớn và chèo chiếc xuồng nhỏ đến được cửa đảo thì đã là một buổi chiều cuối tháng 9, mặt trời ở vùng Nam Dương không biết đến mùa thu này vẫn nóng hoa cả mắt. Nước biển xanh thẫm khi đến gần đảo trở nên đục ngầu như màu cà phê vì con sông lớn trên đảo liên tục đổ ra phù sa đỏ đen từ hạ lưu. Takatani một mình mạnh dạn tiến vào cửa sông, định lên bờ từ bờ đê cỏ cây rậm rạp nhưng dòng nước quá mạnh như thể đẩy anh ra lại phía biển. Trong lúc loay hoay hết cách, một người đàn ông xuất hiện trên bờ. Anh ta mặc áo sơ mi trắng, đội chiếc mũ rơm to như hình chiếc nấm.
“Này, tôi ném đây!” - Anh ta hét lớn bằng tiếng Nhật rõ ràng rồi ném lại một sợi dây gai dài. Tất nhiên, lần đầu không thành công nhưng sau khi cố gắng ném lại hai ba lần, đầu dây thừng đã rơi được vào lòng thuyền. Takatani buộc nó vào mạn xuồng để anh ta kéo vào bờ như kiểu một con thuyền kéo.
“Cẩn thận kẻo bị nước cuốn!” - Anh ta nhắc nhở.
Takatani buộc chặt đầu dây vào gốc cây, lần đầu tiên đặt chân lên bờ đê.
“Chào mừng anh đã đến!” Người đàn ông mỉm cười chào hỏi. Đó là một người đàn ông chừng 30 tuổi, cơ thể vạm vỡ, khỏe mạnh.
Khi Takatani giới thiệu danh tính và mục đích của mình, người đàn ông lại mỉm cười vui vẻ.
“Nếu vậy thì, nào, theo tôi. Trên đảo này không nhiều nhưng cũng có một cánh đồng gai đáng kể. Tôi sẽ dẫn anh đi ngay. Tôi tên là Maruyama Toshikichi.”
Anh cho biết mình là người Nhật, đến đây chừng ba năm trước và đang quản lý khoảng 70 công nhân cả người Nhật lẫn người dân địa phương. Takatani theo anh ta đi từ bờ đê vào chừng hơn 1km thì một cánh đồng gai lớn mở ra trước mắt với những chiếc lá to như lá chuối đang phất phơ trong gió Tây Nam. Maruyama giải thích lần lượt chi tiết về sản lượng và chất lượng của nó trong một năm.
“Được rồi, về lều của chúng tôi uống chút trà đi”.
Sau khi đi tiếp chừng 200m, thì đến một ngôi nhà lớn. Mái nhà lợp tôn, ba mặt ốp ván kiểu Nhật nhưng Takatani để ý thấy nó đã bị hư hỏng nặng. Khi bước vào, trong góc một căn phòng có chiếc giường ngủ và chăn. Trên kệ có chai rượu và một số loại đồ hộp. Cả hai đến bên chiếc bàn tròn đặt ở giữa phòng và ngồi xuống trên chiếc ghế thô ráp.
“Này, Yuzo, có khách, nhanh vào đây!”
Một thanh niên được Maruyama gọi từ bên ngoài bước vào. Đó là một cậu trai thân hình chắc nịch, có vẻ như thích ứng được với cuộc sống ở xứ Nam Dương này, tuổi chừng 18, 19. Cậu ta mặc chiếc sơ mi rúm ró màu nâu và chiếc quần bằng vải gai.
Maruyama giới thiệu cậu ta tên là Yuzo Yasaka, sinh ra ở Amakusa. Có vẻ như Yuzo là người giúp việc của Maruyama, cậu ta lăng xăng xung quanh rồi mang socola và bánh quy đến, cả thuốc lá Manila.
“Dù sao thì cũng chào mừng anh đến!” - Maruyama nói với vẻ cởi mở. “Cũng có nhiều người từ đất liền đến đây nhưng đa phần chỉ đi quanh các đảo chính, chẳng có mấy người đến tận nơi này. Hằng ngày cứ gặp cùng mỗi khuôn mặt nên thấy nhớ người trong đất liền lắm.”
Thực sự, họ có vẻ nồng nhiệt chào đón Takatani, mở nắp chai rượu win mà có lẽ đã cất kỹ mời anh uống. Cả thịt, cá đóng hộp cũng được dọn ra dĩa. Với tư cách là người sống trên hòn đảo này, họ đã tận tình tiếp đãi trong điều kiện cho phép, điều đó làm Takatani hết sức biết ơn. Ban đầu, chỉ dự định đi xem quanh chừng một tiếng rồi quay lại tàu nhưng trước sự tiếp đón chu đáo của những người đang thiếu vắng tình người này, Takatani không thể đứng dậy sớm được nên đã phải mất gần 2 tiếng, chuyện trò đủ thứ. Trong cuộc trò chuyện đó, Maruyama đã nói ra những điều này:
“Khoảng thời gian này, có điều gì đó kỳ lạ xảy ra ở đây, chúng tôi gặp rắc rối vì công nhân trốn chạy cả”.
“Điều kỳ lạ à? Là chuyện gì vậy?”
“Mất nhân công. Kể từ tháng trước, đã 5 người mất tích.” Maruyama cau mày nói.
“Tại sao thế?”
“Không biết. Nghe nói là chuyện cũng đã xảy ra 4, 5 năm trước nên tất cả những người Hà Lan sống ở đây đã bỏ đi, hòn đảo trở thành nơi không người một thời gian trước khi chúng tôi đến 3 năm trước và khai thác an toàn cho đến hiện tại. Dĩ nhiên lúc đến chúng tôi cũng đã xem xét cẩn thận, không có gì lạ nên mọi người cũng đã yên tâm. Người dân địa phương bỏ qua hòn đảo bên cạnh một thời gian, cũng đã dần quay lại đây cùng làm việc với chúng tôi như bây giờ. Thế nhưng, cuối tháng trước, vào đêm ngày 25. Người phụ nữ địa phương ở gần đây đột nhiên mất tích. Không rõ là đi đâu. Có lẽ chuyện là, chị ta ra bờ sông lấy nước, trượt chân ngã rồi bị nước cuốn trôi ra biển và chắc đã bị cá mập ăn thịt. Sau đó, chừng ba ngày, lại một người dân địa phương nữa không thấy đâu. Khi chuyện ấy xảy ra, tình trạng trở nên hỗn loạn hơn nhưng dù sao cũng chưa phải là điều duy nhất.
Những người dân địa phương yếu bóng vía và mê tín bị đe dọa bởi nỗi sợ hãi rằng có lẽ tai họa ngày trước đang quay lại nên lục tục chuẩn bị bỏ trốn, chúng tôi đã phải vất vả ngăn lại, cũng qua được 5, 6 hôm, nhưng vào đầu tháng này, chừng qua ngày thứ tư, lại tiếp tục thêm một người dân địa phương nữa biến mất. Tiếp sau đó hai ngày lại một người, tổng cộng có đến 4 người biến mất nên thật sự tôi cũng rất kinh ngạc. Hơn nữa, dân bản xứ hoang mang như thể không còn nơi để sống, đến khi tôi cũng đâm ra băn khoăn lo lắng vì công việc không trôi chảy thì chừng nửa tháng qua chẳng xảy ra chuyện gì, vừa được nhẹ nhõm đôi chút thì 6 ngày trước, lại một người mất tích, lần này là người Nhật”.
“Người Nhật à… lại biến mất vào ban đêm à?” Takatani nhướng mày hỏi.
“Đúng vậy. Lúc nào cũng biến mất từ nửa đêm về sáng. Đến lúc ấy, sự việc chỉ giới hạn ở người địa phương nhưng lần này lại đến lượt người Nhật, nên mọi người trở nên xôn xao, nhất định không thể ở lại đây được nữa. Tuy nhiên vì cũng tiếc công sức đã bỏ ra đến giờ này, hơn nữa lại đang dở dang nên tôi đã tìm hiểu thêm rất nhiều và quyết định ở lại đây cho đến lúc này, nhưng vì quá sợ hãi, đêm không ngủ được nên chúng tôi làm gấp một túp lều ở hòn đảo nhỏ bên cạnh, khi trời tối mọi người sang đấy ngủ, trời sáng lại quay lại đây. Thật ra cũng rất bất tiện nhưng trước mắt không còn cách nào khác. Anh xem đấy!”
Maruyama có vẻ đang gặp rắc rối lớn, anh nói và nhíu đôi lông mày dày đầy nam tính của mình. Takatani cũng hít vào một hơi, lắng nghe câu chuyện kỳ bí ấy.
“Vậy, những người mất tích đó, về sau không có manh mối gì sao?”
“Không có” - Maruyama lắc đầu ngay - “Dĩ nhiên là chúng tôi đã chia nhau đi tìm rất nhiều nhưng chẳng thấy bóng dáng gì. Tôi nghĩ liệu có ác thú gì đó tấn công hay loài dã nhân nào đó sống trong rừng mà chúng tôi không biết đột nhập hay không nhưng chẳng có xác chết nào để lại cả. Chẳng có cả xương. Vì không để lại ngay cả vết máu nên chúng tôi chẳng đoán được một chút gì. May mắn là đúng lúc này anh lại đến đây, tôi muốn nghe ý kiến của anh… Thế nào, trên đời này lại có chuyện vậy sao?!”
“Hừm”. Takatani cũng lắc đầu. “Những người bị mất tích ngủ một mình à, hay có ai ngủ bên cạnh không?”
“Không, điều đó cũng kỳ lạ. Nếu ngủ một mình thì lại khác, nhưng ở đây, người Nhật thường thì 7, 8 người xếp gối kê thành hàng ngủ trong cùng mỗi lều. Hơn thế, người địa phương thì đến 10, 20 người nằm cuộn với nhau trên chiếu cói trong một phòng, giả sử cho dù ác thú hay dã nhân có đến, để nhẹ nhàng bắt một người đem đi mà không làm cho người khác thức giấc thật sự là một việc rất khó, chắc chắn sẽ có ai đó nhận ra ngay. Phải, đúng thế không. Tuy nhiên con người không phải là thứ biến mất vô cớ, trước mắt, tôi đoán đó là hành động của loài linh trưởng”.
“Có lý”.
“Anh có nghĩ như thế không?”
“Tôi cũng chẳng có suy nghĩ gì hơn thế. Hồi nãy, trong khi nghe anh kể, làm tôi nhớ lại một tiểu thuyết của Doyle”.
“Hả, đó là truyện gì vậy?” - Maruyama chống khuỷu tay lên bàn. Yuzo đang ngồi trên chiếc ghế trong góc phòng cũng sáng mắt lên lắng nghe.
2.
“Dĩ nhiên là câu chuyện sáng tác nhưng Doyle đã viết một truyện như thế này. Trên vùng đất canh tác ở một hòn đảo trên Đại Tây Dương, có người đã biến mất. Chẳng để lại xương cốt và cũng chẳng có vết máu. Sau khi điều tra cẩn thận thì kết quả là do một con tinh tinh đen to lớn gây ra” - Takatani kể - “Có vẻ cũng giống như sự việc lần này, hay nói cách khác là tiểu thuyết của Doyle đã trở thành sự thật. Không biết có phải một loài linh trưởng kỳ lạ nào đó mà chúng ta chưa từng thấy, nửa đêm lẻn vào lều rồi nhẹ nhàng bắt cóc con người đi không”.
“Ra là vậy” - Maruyama gật đầu. “Đó là một phán đoán hợp lý. Chỉ có một chút không hiểu nổi là nếu một quái vật như thế đến rồi vác người đi tôi nghĩ sẽ có tiếng kêu hay gì đó… Nếu chỉ phát ra một chút âm thanh thôi thì trong những người nằm ở bên cạnh, chắc chắn có người sẽ thức giấc, vậy mà…”.
“Theo truyện của Doyle thì con tinh tinh đó có sức mạnh khủng khiếp, trước tiên nó đè mạnh lên xương ngực người đang ngủ, xương vỡ và người đó chết trong một hơi thở. Và nó dễ dàng vác người đó đi. Ngay cả cho dù người đó không chết ngay, bị một sức mạnh đáng sợ như thế đè lên ngực cũng bán sống bán chết, rồi khi nhận ra một con quái thú mà trước giờ chưa từng thấy đè lên người mình như thế thì ai cũng bị kinh khiếp đến không còn sức để kêu nữa đúng không”. Takatani nói thêm.
“Đúng vậy. Nhưng…”. Maruyama như đang có điều nghi vấn, quay nhìn sang phía Yuzo - “Vì chúng tôi cũng nghĩ vậy nên hằng đêm đều thay phiên nhau đi tuần quanh lều, và cả bắn súng để đe dọa. Vì thú dữ sợ lửa nên cũng đốt lửa khắp nơi. Thế nhưng, quả thật là không có công hiệu. Thực tế là người Nhật bị bắt cóc trong đêm lúc có đốt đến 12 đống lửa.”
Đến đó thì lập luận của Takatani trở nên mơ hồ, có vẻ như con quái vật lẻn vào cánh đồng gai dầu không phải là dã nhân, cũng không phải là loài linh trưởng. Giả định tiếp theo là trăn. Cho rằng trăn bò vào rồi nuốt chửng con người nhưng trăn cũng sợ lửa. Đặc biệt là liệu nó có thể bò ra vào lúc nửa đêm được hay không. Cá sấu cũng bò lên mặt đất. Giả thuyết là cá sấu cũng được đưa ra nhưng người dân địa phương ở đây rất nhạy cảm với cá sấu nên chỉ cần ngửi thấy mùi là có thể nhận ra ngay. Người dân địa phương quả quyết không phải là cá sấu. Rồi thì giả thiết là loài thằn lằn cũng được đưa ra nhưng khó có thể nghĩ rằng thằn lằn lại ăn thịt người. Cho dù là có ăn đi nữa nhưng chắc chắn là không nuốt trọn mà chẳng để lại ngay cả xương. Cuối cùng đành phải kết luận có lẽ là hành động của loài dã nhân nhưng có vẻ như Maruyama không tin lắm.
“Cho dù trong vùng rừng núi này có loài dã nhân sinh sống mà chúng tôi không biết nhưng những người dân địa phương ở đây trước nay chưa từng thừa nhận có loài nào giống người như thế. Dù sao thì cũng lấy làm tiếc, đành phải để những người khác sang ở hòn đảo bên cạnh, chỉ còn tôi với Yuzo hai người ngoan cố ở lại trong túp lều này mỗi đêm, thế nhưng hai ba ngày nay chẳng thấy có hiện tượng gì kỳ quái. Có vẻ như đối phương nhắm tới sự lơ là này nên hiện tại chưa đến quấy phá lần nào. Vì, để khi chúng tôi an tâm một chút, nó sẽ nhận ra sơ hở ấy rồi bất ngờ tấn công. Lúc nào cũng dùng thủ đoạn ấy nên từ hôm nay không thể lơ là được nữa đâu”.
![]() |
Minh họa: Nhím |
Takatani cũng nổi tính hiếu kỳ, muốn ở lại túp lều này đêm nay để tận mắt chứng kiến xem quái vật đó là gì. Khi anh nói ra điều đó, Maruyama cũng rất đỗi vui mừng.
“Vâng xin mời. Có anh ở lại cùng, chúng tôi cũng vững tâm nhiều hơn. Có sự giúp sức của anh, tôi cũng muốn xác định hình thù của nó. Tôi không biết sắp xếp thế nào nhưng đồ ngủ cho anh thì có”.
“Dù sao tôi cũng định thức suốt đêm nên không cần đồ ngủ đâu. Đêm xuống có lẽ sẽ lạnh nên nếu có một tấm chăn là đủ. Thế nhưng nếu tôi mãi không quay lại thì những người trên thuyền sẽ lo lắng nên có ai có thể giúp tôi chuyển thư không?”
“Vâng, không có vấn đề gì” - Maruyama quay sang nói với Yuzo, bảo đi gọi một người địa phương.
Takatani xé một tờ giấy trong cuốn sổ tay rồi dùng bút máy viết lên đó. Người địa phương nhận lấy rồi ngay lập tức lên một chiếc xuồng nhỏ, mang đi. Vì quyết định ở lại đây đêm nay nên Takatani cần xem xét rõ địa hình khu vực xung quanh đó, khi anh nhờ đưa đi xem xét lại một lần nữa, Maruyama vui vẻ nhận lời rồi cùng đi ra ngoài.
Trời vẫn còn sáng. Bầu trời màu trắng vắt ngang trên hòn đảo nhỏ này theo hình cánh cung trông như mặt trong của vỏ trai, đây đó điểm thêm vài đám mây nhỏ màu hồng vàng trôi bồng bềnh. Takatani ngắm nhìn màu sắc bầu trời đẹp đẽ lúc này mãi không chán. Trên cánh đồng gai dầu, đám đông cả người Nhật lẫn người địa phương đang bận rộn cắt lá gai. Họ đội những chiếc nón lớn nên không trông rõ mặt nhưng có lẽ họ tiếp tục công việc ban ngày với tâm trạng bị cơn ác mộng về đêm đe dọa. Yuzo cũng đi cùng phía sau Takatani và Maruyama.
“Còn có một việc nữa mà tôi không hiểu” - Maruyama nói khi đi qua cánh đồng gai.
Trước mặt ba người họ có một dòng sông lớn. Takatani nghĩ có lẽ nó đã đổ ra dòng nước đục đó. Khi đứng dưới chân đê nhìn xuống thì thấy dòng chảy rất dốc, xâm thực lớp đất đỏ của bờ đê, làm bờ đất đổ xuống ầm ầm, sủi lên bọt trắng đục ngầu.
Maruyama chỉ gậy vào mặt nước nói:
“Nhìn kìa. Con sông này làm ranh giới, bên kia sông biến thành rừng cây bụi như thế kia. Con quái vật nếu đến từ rừng cây đó thì thế nào cũng phải vượt qua con sông này nhưng tôi nghĩ để băng qua đây là việc không dễ chút nào. Con người thì dĩ nhiên rồi nhưng cho dù đó là khỉ, là trăn hay là một con thú không rõ hình thù, để bơi qua con sông này cũng khó khăn phải không? Với lại, phía bên này bờ sông là bãi trống, chắc chắn chẳng có thứ gì sống ở đây. Cho dù nghĩ thế nào thì con quái vật nếu không phải sống phía bên kia thì cũng từ ngoài biển vào, chỉ có hai giả thiết đó, ngoài ra không thể khác, nhưng nếu nó từ biển vào thì cũng có thể đến cả hòn đảo bên cạnh. Thế nhưng theo lời người dân địa phương thì hòn đảo bên cạnh chưa bao giờ có chuyện lạ kỳ đó. Theo anh, thì có con vật nào vượt qua được con sông lớn này không?”
“Chà, vì nước cũng chảy mạnh quá nhỉ” - Takatani đáp khi nhìn chằm chằm dòng nước đục ngầu như đang ẩn chứa một bí mật đáng sợ.
Ba người lại im lặng leo lên phía thượng nguồn. Bầu trời vẫn đang sáng đẹp nhưng dưới bờ đê đã lờ mờ tối. Âm thanh nước chảy nhỏ dần. Maruyama chỉ tay vào dòng nước, giải thích.
“Từ đây lên phía thượng nguồn dòng chảy nhẹ hơn. Có lẽ do độ dốc của lòng sông nhưng còn vì một lý do nữa là có một con đập tự nhiên”.
Đến đoạn này, một tảng đá lớn nhô lên từ dưới đáy sông. Những thân và nhánh của những cái cây to lớn trôi xuống từ thượng nguồn hàng trăm năm qua bị tảng đá chận lại, chất đống lên nhau, tạo nên một con đập tự nhiên, hình thành một khu vực như cái đầm lớn. Trên bờ nhiều loại cây bụi không rõ tên và lau sậy mọc um tùm.
“Như anh thấy đấy, ở đây dòng nước chảy chậm nên mọi người đến đây lấy nước và giặt giũ. Nó đã hình thành một cách tự nhiên từ xưa nhưng quả thật đã làm rất tốt!” Maruyama cười nói. “Trước hết là vì dòng nước phía hạ lưu quá bẩn không thể uống được.”
Yuzo nhanh nhẹn mang một cái xô đã chuẩn bị trước đến. Cậu băng qua các lùm cây xuống bên mép nước, múc một xô nước tương đối sạch. Trời dần tối, trên mặt nước, từ các bụi lau sậy rậm rạp, không khí lạnh như sương tỏa ra.
“Tối nay có lẽ cũng mưa” - Yuzo vừa hạ xô xuống vừa ngước lên nhìn trời. Trên đầu họ, những đám mây đen đã kéo đến tự lúc nào.
“Hừm, có lẽ là một trận mưa rào” - Maruyama cũng nhìn lên bầu trời - “Nhưng chẳng sao đâu, chừng một hai tiếng là tạnh thôi” - Anh nói với Takatani.
Mặc dù vậy, nghe nói mưa rào sắp đến, không thể cứ quanh quẩn ở đấy được nên Takatani bảo quay về lại lều.
Ba người đi dọc bờ đê theo lối cũ ra khỏi đồng gai, khi về đến trước lều thì đám đông công nhân đã làm xong việc đang xếp hàng ở đó.
“Tối nay cũng sang bên đó à”. Maruyama cười nói.
Những công nhân chào tạm biệt rồi đi về phía dưới sông. Maruyama giải thích với Takatani rằng như đã nói hồi nãy, họ sẽ đi sang hòn đảo bên cạnh để ở lại bằng xuồng nhỏ. Sau đó anh bảo Yuzo đi chuẩn bị bữa tối.
3.
Trận mưa rào đã không như những người ở đó dự đoán, nó ầm ầm đổ xuống như những con thác đang xếp hàng trút xuống một chỗ, e đến túp lều cũng bị cuốn trôi đi mất. Âm thanh to đến mức không thể nói chuyện. Takatani và Maruyama ngồi đối diện nhau trong túp lều sáng lờ mờ, lặng im hút thuốc. Ngọn nến trên bàn chiếu nhập nhoạng nhưng nó cũng bị nước bắn ra từ các khe hở làm tắt mấy lần, cuối cùng Maruyama có vẻ như chán nản, bỏ đấy không thắp nữa, bên trong túp lều chìm trong bóng tối. Chỉ thỉnh thoảng, bằng ánh sáng lóe lên từ những que diêm chủ khách mới nhìn được mặt nhau.
Ở phòng bên, có vẻ như Yuzo đang dọn dẹp sau bữa tối, ánh nến chập chờn chiếu qua khe ván nhưng cuối cùng nó cũng tắt. Mưa trút không ngừng.
“Mưa lớn thật. Đêm nay có vẻ lâu hơn bình thường” - Maruyama nói trong bóng tối.
Takatani đánh một que diêm xem đồng hồ, đã qua 9 giờ. Trong đêm mưa âm u, hơn thế lại trong một túp lều mà có thể quái vật đáng sợ xuất hiện, chỉ có ba người, Maruyama, Yuzo và bản thân ở lại, còn trên toàn đảo có vẻ như chẳng còn ai, nghĩ đến đó, Takatani cảm thấy thật xuẩn ngốc và đôi chút hiu quạnh.
Một tiếng sấm vang lên dữ dội như đe dọa các linh hồn đang sợ hãi.
“Nếu có sấm thì sắp tạnh rồi!” Maruyama nói.
“Mưa như này quái vật cũng không ra được đâu nhỉ.”
“Vâng. Đặc biệt là khi sấm dữ dội như thế này, nói chung có lẽ quái vật cũng sợ hãi không dám ra”.
Sấm sét càng lúc càng lớn, những tia chớp xanh lè chiếu vào tận lều. Khuôn mặt của Maruyama dưới ánh sáng tia chớp trông chẳng khác gì một con quái vật, Takatani chợt cảm thấy hơi e sợ. Hai người vẫn lặng im. Phòng bên cũng yên tĩnh. Trời vẫn tiếp tục mưa chừng hai tiếng sau đó, và có vẻ như cuối cùng nước đã chảy vào lều. Mũi giày của Takatani thấm ướt và lạnh. Sấm vang rền cả mặt đất. Đột nhiên Maruyama thét lên “A!” Rồi anh tiếp tục gọi lớn “Yozu, Yozu ơi!... Yasaka,Yasaka ơi! Đi đâu đó?!”
Vì mưa rất lớn nên Takatani không hiểu chuyện gì nhưng người đã quen với gió mưa như Maruyama có vẻ như nghe thấy tiếng bước chân của Yozu đi đâu đó. Anh ta liên tục gọi tên Yozu nhưng từ phòng bên chẳng có tiếng trả lời.
“Mưa thế này mà đi đâu vậy?” Takatani hỏi có vẻ bất an.
“Có vẻ thế!” Maruyama căng thẳng trả lời.
Anh ấy đột nhiên đứng dậy, đánh diêm. Takatani cũng nhân tiện giúp thắp nến.
Nền đất đã ngập trong nước mưa hơn 3 đốt tay. Hai người lội trong nước, cố gắng giữ cho ngọn nến không tắt, đi ra.
Có một lối vào chừng bốn thước ở giữa nối với phòng kế bên với một tấm cỏ lác buông xuống thay cho bức rèm. Khi vén tấm cỏ lác ấy nhìn vào phòng thì quả thật không thấy bóng dáng Yuzo trong đó.
“Ối, có phải xảy ra rồi không?!” Maruyama bật thét lên. Đúng lúc ấy, ngọn nến phụt tắt.
Bị đe dọa bởi nỗi kinh hoàng khó tả, Takatani vội vàng đánh diêm. Thắp lại nến thì quá phiền, hai người bèn dùng số diêm còn lại chiếu khắp phòng nhưng không tìm thấy Yuzo.
“Chắc chắn chưa đi quá xa đâu”.
Maruyama rút trong bộ bảo hộ ra khẩu súng lục rồi chạy ra phía trước. Takatani cũng cầm lấy khẩu súng đã chuẩn bị sẵn chạy ra theo. Tuy nhiên, vì không xác định được đi theo hướng nào nên cả hai chạy lòng vòng trong cơn giông. Tia chớp xanh lại lóe lên và nhờ ánh chớp mà trông thấy được bóng Yuzo từ phía sau trên cánh đồng gai. Cả hai băng qua làn mưa như thác đổ, phăm phăm đuổi theo ra giữa cánh đồng. Khi ánh chớp tắt, trời lại tối đen nên cả hai lại mất phương hướng nhưng họ cho rằng có lẽ Yuzo đi về hướng bờ đê nên họ vừa liên tục gọi vừa rẽ đồng gai chạy ra phía bờ sông. Sấm lại nổi lên. Chớp cũng tiếp tục lóe sáng. Dưới ánh sáng ấy, hình bóng của Yuzo lại xuất hiện. Cậu ấy đang đi xuống sông từ bờ đê.
“Yasaka ơi! Yuzo ơi…!”
“Yuzo…! Yasaka…!”
Vừa gọi chừng như vỡ cả họng, cả hai định lao xuống từ bờ đê thì, trước tiên, Maruyama trượt té lăn ra trên bãi cỏ đẫm ướt, rồi đến Takatani cũng té theo. May thay, cả hai bám được vào một sợi dây leo lớn nên tránh khỏi bị trượt rớt xuống sông, nhưng trong lúc ấy thì không thấy bóng dáng của Yuzo đâu nữa. Dù vậy, họ vẫn cố gắng gọi tên cậu bé, chạy quanh khắp nơi trong khi người ướt sũng, nhưng làm thế nào đi nữa cũng không tìm ra được.
Cơn mưa kéo dài sau đó thêm chừng 30 phút rồi tạnh, ánh trăng sáng chiếu lên mặt nước. Cả hai tìm kiếm khắp nơi từ bờ đê đến đồng gai nhưng kết quả chỉ làm tăng thêm sự mỏi mệt vô ích. Không còn đi nổi, họ như bò về lều rồi để nguyên vậy ngã lăn ra giường.
Trời sáng, những người công nhân quay lại. Nghe lại chuyện hồi đêm, bọn họ xanh cả mặt. Họ chia nhau ra tìm kiếm nhưng không thể nào biết được tung tích của Yuzo. Không thể ở lại đó mãi được nên Takatani đã rời túp lều ở cánh đồng gai vào chiều ngày hôm đó. Maruyama nói khi chia tay.
“Không thể tiếp tục được nữa rồi. Những người công nhân kiên quyết không muốn ở lại đây nữa, nên cho dù đáng tiếc tôi cũng phải rời khỏi đây sang đảo bên kia. Yasaka thật đáng thương. Tuy nhiên, nhờ sự việc hồi hôm mà tôi lần đầu phát hiện ra được rằng, chẳng phải là quái vật, chẳng phải trăn, cũng chẳng phải là dã nhân. Chính xác là điều gì đó mà mắt thường không thấy được. Không thể bắt được bằng súng ống hay bẫy. Tất cả bọn họ đều bị lôi kéo bởi con quái vật vô hình và bị hút về phía dòng sông.”
“Tôi cũng nghĩ có lẽ là như vậy. Nếu mọi người đã nói thế, anh cũng nên bỏ đây đi thì an toàn hơn”. Takatani khuyên.
“Cám ơn anh. Vậy thôi, chúc anh bình an!”
“Anh cũng giữ gìn sức khỏe nhé!”
Mọi người tiễn anh ra đến cửa sông. Takatani xuống xuồng quay lại con thuyền.
Câu chuyện này, sau đó, Takatani kể thêm.
“Sau khi quay về thuyền, tôi kể lại cho mọi người nghe, cả thủy thủ và những hành khách khác, đều lấy làm kỳ lạ, chẳng hiểu đó là chuyện gì. Theo ý kiến của một bác sĩ có mặt trên tàu, quái vật này, dĩ nhiên, không phải là động vật, cũng không phải là con người mà có lẽ là một chứng bệnh - Một loại bệnh sốt. Như đã kể, phía trên con sông, dòng chảy chậm lại, có một khu vực giống như một cái hồ. Ở đó có nhiều cây bụi và những loại lau sậy. Những người trên đảo trước sau đều lấy nước ở đó. Nước ở đó tiềm ẩn một loại bệnh như sốt rét, có thể do muỗi lây truyền mà cũng có thể truyền nhiễm tự nhiên, cho dù bằng đường nào thì người bị nhiễm sẽ lên cơn sốt, đầu óc quay cuồng và đột nhiên trở nên điên loạn. Sau đó họ tự ném mình xuống sông. Chắc chắn là như thế, ông ta bảo. Hiểu rồi, có thể có khả năng đó. Nhưng trước hết, nếu đó là trường hợp của một người thì hiểu được nhưng điều không thể hiểu là người nào cũng nhảy sông cả. Nếu như đầu óc điên loạn dẫn đến tự sát, thì không giới hạn ở chuyện nhảy sông, có thể có người sẽ tự sát bằng liềm cắt gai dầu, thế nhưng, như thể đã thống nhất với nhau, tất cả họ đều bị con sông nuốt chửng. Điều đó, tôi không hiểu được. Tôi đồ rằng bên dưới đáy nước màu cà phê đó, có thể có một con yêu quái hay gì đó mà con người chưa biết đang ẩn nấp chăng.
Với những nghi ngờ đó, vị bác sĩ giải thích thêm như sau. Có lẽ bệnh nhân sốt rất cao, chừng như toàn thân bị thiêu đốt nên trong lúc tuyệt vọng đã nhảy xuống nước… Đó cũng là một khả năng, nhưng khả năng thì có thể là bất cứ điều gì. Dù sao, tôi đã trải qua một đêm trên cánh đồng gai ở Nam Dương, tận mắt chứng kiến điều đáng sợ ấy nên kể lại thôi. Nếu đó là con tinh tinh trong tiểu thuyết của Doyle thì có lẽ còn có cách chinh phục được, nhưng đối với thứ không trông thấy được thì chẳng có cách nào. Ngay cả cho dù đó là một loại bệnh, tôi vẫn cảm thấy đáng sợ. Nếu bạn có can đảm, cũng một lần đến đó xem thử đi!”
----------
(Dịch từ nguyên tác tiếng Nhật
Nguồn https://www.aozora.gr.jp/cards/000082/files/45478_24682.html)
(TCSH400/06-2022)
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.