Nghệ thuật truyền thống dân tộc như: tuồng, chèo, cải lương, kịch hát dân tộc… đang kêu cứu, vì người xem ngày càng giảm, người theo nghề ngày càng hiếm. Hiện nghệ thuật truyền thống dân tộc đang thiếu hụt trầm trọng lực lượng thay thế trên tất cả các lĩnh vực, như diễn viên, nhạc công, biên kịch, đạo diễn…
Sân khấu truyền thống trăn trở cách tồn tại.
Nhưng đây cũng là hiện trạng chung của thế giới. Nhạc cổ điển, ôpêra, balê… từng là niềm tự hào của châu Âu, nay cũng rất kén người xem. Rồi kinh kịch, kịch Nô… của Trung Quốc, Nhật Bản cũng không còn hấp dẫn khán giả.
Nói về nguyên nhân, có ý kiến đổ lỗi cho sự nở rộ một cách hấp dẫn của các loại hình nghệ thuật giải trí mới. Người xem hiện nay có điều kiện, có phương tiện để lựa chọn cho mình loại hình nghệ thuật mà mình ưa thích.
Điều này đúng nhưng chưa đủ, mà điều quan trọng là thị hiếu thẩm mỹ của khán giả ngày nay đã đa dạng hơn, phong phú hơn và khó tính hơn. Nhưng điều cốt tử vẫn là: Nghệ thuật truyền thống tuy quý giá, nhưng ở một mức độ nào đó đã không còn phù hợp, không đáp ứng nổi nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật của khán giả hôm nay.
Nói như vậy để chúng ta không lo lắng thái quá, mà cần bình tĩnh tìm biện pháp tháo gỡ - cả trước mắt và lâu dài, để nghệ thuật truyền thống mãi mãi vẫn là những viên ngọc quý, trường tồn cùng dân tộc.
Trước hết cần lưu giữ và bảo tồn có trọng điểm. Chỉ khôi phục và dựng lại những vở diễn hay nhất, mẫu mực nhất của tuồng, chèo, cải lương, kịch hát dân tộc. Những món ngon của ông cha, có thể không hoàn toàn hợp khẩu vị khán giả hôm nay, nhưng nó vẫn là điều mà người ta muốn tìm hiểu, muốn khám phá, muốn cảm nhận – ít nhất là một lần.
Hạn chế tối đa việc “lấy xưa phục vụ nay” theo kiểu cốt truyện hiện đại, nhân vật hiện đại… được lắp ghép một cách cơ học với các làn điệu tuồng, chèo, cải lương…
Nói như thế không có nghĩa là nghệ thuật dân tộc không được dàn dựng những vở có nội dung hiện đại, mà chỉ dàn dựng những kịch bản mà cốt truyện, nhân vật… có những tương đồng, tương thích… với những làn điệu, với cách dựng truyện của nghệ thuật truyền thống.
Năm 1962 tôi được xem một vở chèo hiện đại của Đoàn Nghệ thuật quân đội “Tấm ảnh bên đầm sen”. Thời gian trôi lâu quá rồi tôi không nhớ tác giả của vở chèo là ai, chỉ biết tối hôm ấy sân vận động của huyện đông nghịt người (bởi mấy khi được xem nghệ thuật chuyên nghiệp ở thời kỳ ấy).
Tôi cũng không nhớ thật rành rẽ cốt truyện, chỉ biết là câu chuyện xảy ra trong kháng chiến chống Pháp. Khán giả trầm trồ, bởi với công nghệ hiện đại, người ta được chứng kiến Mặt trăng (trên sân khấu) từ từ nhô lên tròn vành vạnh. Nhưng khán giả cũng la ó khi nữ nhân vật chính đang bị giặc Pháp đuổi bắt, mà cứ đứng hát mãi làn điệu này sang làn điệu khác. Gần 60 năm rồi, mà tôi vẫn nhớ rất nhiều khán giả đã la lên: Trốn đi, hát mãi, nó bắt bây giờ! Nói thế để thấy, nghệ thuật chèo đầu những năm 60 của thế kỷ trước, rất được nhân dân ưa chuộng, nhưng người ta đã không chịu được khi dàn dựng không phù hợp với bối cảnh, và không khí của cuộc sống mới.
Nhưng điều có tính chất quyết định là Nhà nước phải nuôi những đơn vị nghệ thuật truyền thống như những bảo tàng nghệ thuật sống. Hiện nay Nhà nước vẫn “nuôi” nhưng chỉ với danh nghĩa tài trợ, cho nên những đơn vị nghệ thuật nay phần nhiều sống vất vưởng và do vậy không hấp dẫn lớp trẻ đầu quân. Nhìn sang thế giới, các đơn vị nghệ thuật, các chương trình biểu diễn nhạc cổ điển, ba lê, opêra… đều được các nước tài trợ, vì không địch nổi với trào lưu âm nhạc mới, như rock, pop, ráp…
Rồi kịch Nô, kinh kịch… cũng dược Nhật Bản, Trung Quốc “nuôi” để phục vụ chủ yếu cho khách nước ngoài, những người có nhu cầu nghiên cứu và thưởng thức. Trở về với các đơn vị nghệ thuật truyền thống trong nước, Nhà nước “nuôi” nhưng phải có chọn lọc. Tức là chỉ những đơn vị nghệ thuật thực sự có tính chuyên nghiệp, có trình độ nghệ thuật cao mới được tài trợ.
Vẫn phải có mục tiêu, yêu cầu cụ thể… nhưng phải tạo điều kiện cho các nghệ sĩ của các đơn vị nghệ thuật này sống được đoàng hoàng bằng nghề. Tránh tình trạng hiện đang phổ biến ở không ít nơi là đơn vị nào cũng được tài trợ, nhưng không đơn vị nào sống được bằng nghề.
Cùng với đó phải phát triển phong trào tìm hiểu nghệ thuật truyền thống, nuôi dưỡng phong trào sân khấu học đường (có thời gian phát triển rất tốt). Bởi nghệ thuật sân khấu truyền thống (đặc biệt là sân khấu tuồng) đòi hỏi người xem phải có trình độ, có hiểu biết nhất định mới thưởng thức được, mới thấm thía cái hay của vở diễn, ở không ít trường hợp, khán giả không thấy hay, không thích xem bởi họ không hiểu hết, không được trang bị những kiến thức tối thiểu.
Sự khúc mắc của nghệ thuật truyền thống khi đến với khán giả hiện nay là ở đó và sự hấp dẫn với khán giả hôm nay cũng là ở đó. Người xưa đã nói “nghề chơi cũng lắm công phu”, chúng tôi nói thêm, nghề thưởng thức cũng phải công phu. Để chuẩn bị cho một thế hệ nghệ sĩ mới, thế hệ khán giả mới, thiết nghĩ nghệ thuật truyền thống cần phải được dạy và học bài bản trong nhà trường phổ thông. Điều này chúng ta đang rất thiếu và yếu.
Theo Trần Bảo Hưng - ĐĐK
Chúng ta tưởng rằng, chúng ta tạo ra mạng xã hội là để chúng ta tự do hơn: tự do phát ngôn, tự do thể hiện quan điểm và suy nghĩ của mình, nhưng nhìn những điều đang diễn ra, chúng ta liệu có đạt được tự do thực sự và quan trọng hơn, là tìm kiếm được hạnh phúc?
Mấy chục năm qua, phê bình luôn được coi là khâu yếu nhất của nền văn nghệ. Nhẹ thì cũng là chưa theo kịp sự phát triển của phong trào sáng tác, không cắt nghĩa được sự phức tạp của các hiện tượng văn nghệ…
Có thể đội tuyển Nhật Bản không vô địch World Cup 2018 nhưng các cổ động viên của họ đã vô địch trên khán đài khi để lại ấn tượng đẹp về ứng xử cũng như hành động dọn sạch rác khu vực ghế ngồi.
Là một nghề gắn với viết lách, chữ nghĩa nên không có gì lạ khi nhiều nhà báo viết sách. Nhưng bản chất nghề báo là công việc liên quan đến thông tin nên sách của nhà báo ngoài sự đa dạng còn có một đặc thù riêng là luôn gắn với dòng chảy của thời sự, nhất là dòng thời sự liên quan đến chuyên môn của từng người.
Tạo tác và sử dụng mặt nạ là nét văn hóa vẫn sống động ở vùng Eo biển Torres của Australia. Những kiến thức lịch sử chứa đựng bên trong khiến chúng được mang đi trưng bày khắp thế giới. Nhưng điều đáng nói còn là câu chuyện ứng xử với truyền thống nơi đây.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao hơn nữa nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân trong việc chung tay xây dựng lễ hội; tăng cường công tác phối hợp với các tỉnh tham gia tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương-Lễ hội Đền Hùng hằng năm.
Trước giá trị di sản và thách thức do biến tướng, thương mại hóa trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ, series phim Mẹ Việt - Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã chính thức ra mắt cuối tuần qua. Theo bà Đàm Lan, Chủ nhiệm dự án phim, mỗi thước phim là hành trình lắng đọng tâm thức, tìm về văn hóa truyền thống, tín ngưỡng nội sinh của dân tộc Việt.
Với những thay đổi về ưu đãi tuyển sinh, mùa tuyển sinh 2017-2018 số lượng học sinh, sinh viên thi vào ngành Âm nhạc dân tộc (ANDT) cũng tăng hơn những năm trước. Đây là tín hiệu mừng của sự thay đổi hợp lý ở khâu tuyển sinh cho các ngành “hiếm muộn”.
Nói đến nạn sách lậu, ai cũng biết vì đây là câu chuyện “xưa như Trái Đất.” Xong dường như câu chuyện xưa cũ này càng ngày càng dài, nội dung, tình tiết càng phức tạp và làm “phiền lòng” không chỉ cộng đồng yêu sách mà cả các cơ quan chức năng.
Tại hội thảo khoa học chuyên đề “Những tinh hoa sân khấu cải lương thể hiện qua các vai diễn về đề tài lịch sử” vừa tổ chức tại Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh TPHCM, những nghệ sĩ, nhà giáo, nhà lý luận phê bình sân khấu kỳ cựu, đều có chung nhận định: “Cải lương không thể chết!”.
“Ký ức Hội An” - chương trình biểu diễn thực cảnh hoành tráng trên một sân khấu mới được xây dựng rất quy mô tại cồn bắp Cẩm Nam (cồn Ga Mi), sông Hoài, TP Hội An đang vấp phải phản ứng của người dân, nhà nghiên cứu và những người yêu mến phố cổ này. Một lần nữa, câu chuyện về xung đột giữa bảo tồn và phát triển lại được đặt ra, mà nguyên nhân chính là không tôn trọng văn hóa bản địa.
Khi nhắc tới sân khấu kịch, người ta thường nghĩ tới ánh hào quang, trang phục lộng lẫy và hóa trang cầu kỳ. Thực tế, nghệ thuật kịch có thể được ứng dụng hiệu quả trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là giáo dục, qua đó kích thích các khả năng tiềm ẩn của học sinh.
“Thời gian gần đây, việc xây dựng, trưng bày tượng, biểu tượng có nội dung và hình thức không phù hợp với văn hóa Việt Nam tại một số cơ quan, đơn vị, khu du lịch và địa điểm công cộng, tác động không tốt đến môi trường văn hóa, thị hiếu thẩm mỹ của cộng đồng và xã hội.”
Xả rác bừa bãi nơi công cộng; đua xe, lạng lách; văng tục, chửi thề; chen lấn, xô đẩy khi tham gia các dịch vụ công cộng; phá hoại, bôi bẩn các công trình công cộng;…là những hình ảnh xấu xí của không ít người trẻ hiện nay, và trở thành nỗi trăn trở của nhiều lãnh đạo TP HCM trong quá trình xây dựng nếp sống văn minh đô thị.
Các công trình nghệ thuật công cộng là thành phần không thể thiếu trong quy hoạch và kiến trúc của một đô thị hiện đại. Thế nhưng “ranh giới” trong quan điểm, nhận thức tạo hình mỹ thuật cùng với tâm lý sính ngoại đã ít nhiều làm không gian công cộng biến dạng.
Ai đó nói, thời buổi giờ chỉ có ngành du lịch tâm linh, hay kinh doanh tâm linh là ăn nên làm ra, bỏ ra một đồng tức khắc có bốn đồng chảy ngược vào túi. Mà là tiền tươi, thóc thật, là tiền sạch nói như ngôn ngữ thời thượng - đồng “tiền hữu cơ”.
Ngày nay bất kì sự sáng tạo nghệ thuật ở phân mảnh nào cũng bắt đầu bằng tiền và kết thúc bằng tiền theo quy luật thị trường.
Năm hết. Tết đến. Người ta đôi khi chạnh lòng nghĩ “nên làm gì?”.
Do đời người có hạn, không ai có thể “trường sinh bất tử” nên có thể nói “quỹ thời gian” mỗi con người có giá trị cao nhất. Thời gian quy định sự sống của con người, buộc mỗi người phải biết sống. Người biết sống chính là người biết “sống nhanh, sống chậm”.
Có những thứ sẽ dần trôi tuột theo năm tháng, guồng quay của cuộc sống hiện đại có thể đã làm biến đổi phần nào giá trị của Tết. Nhưng nếu biết lắng lại, nghĩ khác đi thì Tết dường như vẫn luôn vẹn nguyên trong tâm thức mỗi người.