Để làm "sáng giá" và "sang giá" tác phẩm văn học (*)

10:02 25/01/2022


(Phỏng vấn nhà nghiên cứu phê bình văn học HOÀNG NGỌC HIẾN)

GS Hoàng Ngọc Hiến - Ảnh: internet

P.V: Bạn đọc có những sự đánh giá rất khác nhau về những bài phê bình của anh, nhưng hầu như mọi người nhất trí văn phê bình của anh sáng sủa. Hẳn là anh đã có một quá trình...

H.N.H: Trước cách mạng, tức là cho đến năm mười lăm tuổi, tôi học ở những trường dạy bằng tiếng Pháp. Trong gia đình tôi có hai tủ sách. Tủ sách tiếng Pháp là của bố tôi, một giáo viên tiểu học. Bố tôi - ông tin rằng chỉ tiếng Pháp mới là chìa khóa đi vào tri thức và văn hóa - chỉ cho phép chúng tôi đọc sách tiếng Pháp. Văn phê bình của tôi được nhiều bạn đọc khen là sáng sủa. Có thể là tôi đã tiếp nhận được sự "sáng sủa Pháp" la clarté franҫaise từ tủ sách của bố tôi. Tủ sách tiếng Việt là của mẹ tôi và chị tôi. Những lúc bố tôi đi vắng, tôi đến tủ sách tiếng Việt tranh thủ đọc ngấu nghiến tất cả những gì đọc được: Ngày nay, Tao Đàn, Tiểu Thuyết Thứ By, văn xuôi Tự Lực Văn Đoàn, tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, truyện của Nguyễn Tuân, Nam Cao... Tủ sách của mẹ và chị tôi đã truyền cho tôi tình yêu tiếng Việt và văn học Việt.

P.V: Thời học phổ thông anh đã có thiên hướng văn chương?

H.N.H: Những năm 47-49, đương học Trung học chuyên khoa (một thứ cấp III có phân ban) tôi chuyển từ ban Toán - Lý sang ban Văn - Sinh ngữ. Thời này tôi đọc được hai cuốn sách quan trọng: Cuốn Chủ nghĩa Mác và những vn đề văn hóa Việt Nam của Trường Chinh thức tỉnh ở tôi một điều: làm văn học nghệ thuật không thể không quan tâm đến vận mệnh của dân tộc và sự tiến bộ xã hội. Cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh thuyết phục tôi rằng phê bình văn học đích thị là văn chương, câu văn phê bình cũng phải làm giàu chất thơ và có âm điệu, tiết tấu.

P.V: Một thời gian dài, công chúng chỉ biết anh như là chuyên gia về Maiacốpxki.

H.N.H: Đầu những năm 50, văn học Xô-viết đến Việt Nam trước hết bằng những bản dịch tiếng Pháp. Tình cờ tôi đọc được cuốn Vers et proses của Elsa Triolet giới thiệu Maiacốpxki bằng tiếng Pháp. Cuốn sách tuyệt vời này ngay lập tức làm tôi say mê Maiacốpxki (tôi cho rằng làm cho độc giả mê các nhà văn nhà thơ là một việc hết sức quan trọng của phê bình văn học). Tôi cứ ao ước làm sao viết được một cuốn sách giới thiệu Maiacốpxki với công chúng Việt Nam. Mãi đến năm 1976 tôi mới thực hiện được điều này (Maiacpxki, con người, cuộc đời và thơ. Nxb, Đại học). Đến năm 1985 thì tôi dịch xong và công bố hầu hết những tác phẩm chính của Maiacốpxki. Làm thơ ca ngợi cách mạng Maiacốpxki luôn luôn đặt ra những câu hỏi lớn về viễn cảnh của cuộc cách mạng, về tương lai của nhân loại. Trong một bài thơ gửi Trung ương Đảng việt năm 1922 ông xem quả đất chỉ là một chấm tròn và trên "chấm tròn quả đất" ông nhìn thấy "lòng khòng một dấu hỏi khổng lồ". Ngày nay "dấu hỏi khổng lồ" đương trở thành một ám ảnh của cả loài người.

P.V: Anh giảng dạy lâu năm ở đại học. Nếu như có thể nói đến một giới "phê bình đại học", anh có thuộc về giới này không?

H.N.H: Năm 1957 đương dạy văn ở một trường phổ thông tôi nhận được giấy của Bộ Giáo dục điều động về làm trợ lý cho giáo sư Hoàng Xuân Nhị tại Khoa Văn Đại học tổng hợp Hà Nội. Thầy Hoàng Xuân Nhị đã "rèn" cho tôi những quy củ cơ bản của nghiên cứu văn học. Thời gian này tôi đi nghe những bài giảng về lịch sử tư tưởng của GS. Trần Đức Thảo. Lại thêm một say mê mới: triết học Hêghel. Tư duy triết học Héghel đã góp phần nâng cao tính khái niệm những bài viết của tôi. Từ năm 1979 tôi là chủ nhiệm bộ môn Lý thuyết và thực hành sáng tác các th loại văn học. "Phê bình đại học” ít nhiều mang tính chất kinh viện. Sinh viên trường Nguyễn Du là những người viết trẻ, ở đây hơn ở đâu hết, mọi thứ "kinh viện" đều bị "bật" ra.

P.V: Xin cho biết về chuyến du học Liên Xô của anh.

H.N.H: Năm 1959 tôi sang Liên Xô học nghiên cứu sinh ở Đại học tổng hợp Maxkva. Luận án của tôi về Maiacốpxki được bảo vệ năm 1964. Giáo sư Đuvakin - người hướng dẫn tôi làm luận án - là một người thực sự say mê Maiacốpxki và một điều hết sức đáng quý đối với tôi là ông đã cho tôi thấy rằng trong nghiên cứu và phê bình văn học tình yêu và sự say mê cao hơn sự uyên bác, trong lĩnh vực này mà không có tình yêu thì càng uyên bác càng "dởm". Một điều may mắn là bản luận án của tôi được nhà văn Andrây Ximiavxki đọc và ông đã viết những lời nhận xét tốt đẹp.

P.V: Khoảng mươi năm gần đây, công chúng mới để ý đến tiếng nói của anh về văn học Việt Nam đương đại. Ý kiến của anh về chặng đường này...

H.N.H: Bài V một đặc đim của văn học của ta trong giai đoạn vừa qua (Văn nghệ, số 23/1979) là bài phê bình quan trọng đầu tiên của tôi về văn học Việt Nam đương đại. Bài báo đã thành công một cách "om sòm". Theo lời của Chế Lan Viên, "từ Nam chí Bắc trong cả nước, bài báo đi đến đâu, lập tức công chúng bị chia đôi: một phe ủng hộ nhiệt liệt, một phe ra sức bài bác". Bài báo được chú ý đến như vậy là do có một từ nghe lạ tai: "chủ nghĩa hiện thực phải đạo". Hóa ra trong phê bình văn học, cũng như trong các thể loại văn học khác, không thể thiếu được sự sáng tạo từ. Trong bài báo "Văn học thời kỳ vừa qua và xu thế phát trin" mới công bố gần đây tôi thử suy nghĩ những sự kiện văn học bằng hai phạm trù "âm" và "dương". Bài này cũng gây tranh luận nhưng không om sòm như bài trước. Trong văn học đương đại tôi chú ý đến những tác phẩm đánh dấu sự biến đổi sâu sắc của những tác giả đã có quá trình viết khá lâu (Phiên ch Giát của Nguyễn Minh Châu, Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiu ma của Nguyễn Khắc Trường) và những tác giả mới xuất hiện những năm gần đây như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Bảo Ninh... Tôi quan niệm rằng trong lĩnh vực văn học, để thực sự đổi mới trong hiện tại và tương lai, nhất thiết phải có sự nhìn lại, "nhìn mới" quá khứ, tức là di sản văn học cổ điển. Đọc lại Nguyễn Du, Trường ca Đam San, Vũ Trọng Phụng, Hàn Mặc Tử..., suy nghĩ lại tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi, Nam Cao... tôi đã viết những bài báo: "Triết lý Truyện Kiu", "Những giá trị nhân bản cao đẹp của Trường ca Đam San", "Trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong S đỏ", "Tiếp cận cái "siêu" trong thơ Hàn Mặc Tử, "Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo"... Những bài phê bình văn học hiện đại và nghiên cứu văn học cổ điển đã được tuyển vào tập Văn học - Học văn (của Hoàng Ngọc Hiến xb ở Tp. Hồ Chí Minh, 1990).

P.V: Phương pháp nghiên cứu văn học của anh...?

H.N.H: Cuối những năm 60, tôi chủ trì hai cuộc hội nghị khoa học bàn về phương pháp nghiên cứu văn học (Khoa văn, Đại học sư phạm Vinh). Hội nghị tập hợp được nhiều bản báo cáo khoa học có giá trị. Kết quả là biên soạn được một tập "Sơ thảo giáo trình phương pháp luận nghiên cứu văn học". Tập giáo trình không xuất bản được. Hai mươi năm sau, một bài trong tập giáo trình (bài "Tăng cường chính xác khoa học trong nghiên cứu văn học") mới được dịp công bố trong tập "Các vấn đề của khoa học văn học" (N.x.b Khoa học xã hội, 1990). Phương pháp nghiên cứu văn học của tôi có thể tóm tắt trong ba từ: đích đáng, đích đáng và đích đáng. Đặt ra những vấn đề đích đáng, giải quyết vấn đề đưa ra được những ý kiến đích đáng, diễn đạt ý kiến tìm được những từ đích đáng.

P.V: Quan niệm của anh về phê bình văn học?

H.N.H: Tôi viết phê bình để làm "sáng giá" và "sang giá" những tác phẩm tôi tâm đắc. Không có sự tâm đắc này, phê bình văn học hướng về những mục đích ngoài văn học, Những bài phê bình hay làm người đọc yêu văn học. Yêu văn học là yêu những giá trị tinh thần, sự khô cạn của tình yêu này đương là một trong những sự cùng khốn của thế giới hiện đại. Cũng như các thể loại văn học khác, viết phê bình không thể thiếu cảm hứng. Người viết phê bình là người có những chủ kiến mạnh mẽ (về các vấn đề nhân sinh, cũng có khi là những vấn đề học thuật). Cảm hứng phê bình nảy sinh khi chủ kiến của nhà phê bình ngẫu nhiên cộng hưởng đâu đó với tác giả hoặc tác phẩm nào đó. Những chủ kiến của nhà phê bình là sản phẩm của sự suy nghĩ có ý thức đồng thời có gốc rễ vô thức (có những kinh nghiệm cá nhân và kinh nghiêm cộng đồng được tàng trữ ở đây). Có những chủ kiến được bộc lộ cho "thỏa chí", cho "bõ hờn", cái "chí", cái "hờn" này truyền sức mạnh cho chủ kiến. Nhà phê bình là điểm xuất phát. Trình bày những ý kiến nảy sinh từ sự cộng hưởng sao cho có sức thuyết phục với công chúng văn học, đây mới là lao động cơ bản của người làm phê bình. Cộng hưởng với tác giả nào, tác phẩm nào thì viết phê bình tác giả ấy, tác phẩm ấy. Nhà phê bình không thể không tìm hiểu tác giả, tác phẩm mình phê bình, sự tìm hiểu này có thể làm thay đổi chủ kiến của nhà phê bình nhưng cuối cùng thì viết phê bình vẫn là bộc lộ chủ kiến của mình. Octavio Paz hoàn toàn có lý: "Đối với nhà phê bình, bài thơ là một điểm xuất phát để đi đến một văn bản khác, văn bản của mình".

P.V
(TCSH51/09&10-1992)

--------------------------
(*) Đầu đề do chúng tôi đặt - TCSH.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHONG LÊ Trở ngược lại buổi đầu của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, ta đều thấy lực lượng viết của văn học “vô sản - cách mạng” - như tên gọi ở giai đoạn hình thành của nó, cơ bản được cấu tạo từ hai nguồn.

  • Lời người dịch: Nhà thơ Slam Lisa Martinovic đồng ý cho chúng tôi chuyển dịch bài viết ngắn này, khởi đầu giới thiệu với bạn đọc một phong trào thơ trình diễn Mỹ. Đây là một phong trào thơ được nhà thơ Marc Smith sáng lập tại Chicago.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNMấy tháng trước ngày cơn đại sóng thần - grand tsunami - vỡ trào quét vào vùng biển Ấn Độ vào năm 2004, tàn phá vùng duyên hải của 12 nước ven biển và giết hại 230 nghìn mạng sống, người ta chú ý đến hiện tượng thiên di của các loài động vật.

  • NGUYỄN QUÂNLà một người vẽ mà lại yêu thơ, khi đọc liên tưởng của tôi trước hết là liên tưởng của con mắt. Cái chúng ta quen gọi là hình ảnh, hình tượng thơ … với tôi trước hết là cái có thể nhìn thấy trong đầu, khi đọc thơ.

  • LÊ QUANG THÁIVăn khảo luận ít khi viết năm Mão như văn nói thông thường, chỉ vì chưa định rõ năm nào trong các năm: Ất Mão, Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão. Cho nên, không thể dịch ra tiếng Anh: “Year of the cat” một cách vô tư lự được. Viết quảng cáo lớn chữ “Xuân Tân Mão, 2011” mà lại dịch một cách tùy tiện như trên hẳn là chưa ổn.

  • NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không.                                 (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa

  • LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.

  • PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?

  • L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.

  • ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.

  • VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

  • NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).

  • PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:

  • ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?

  • TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.

  • KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?

  • MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.

  • INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay

  • XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.