Để bảo tồn và phát triển nền thể thao dân tộc tại Thừa Thiên Huế

15:07 24/05/2019

LÊ HOÀNG TÙNG

Vai trò của thể dục, thể thao đã được xã hội thừa nhận, đánh giá là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến sự phát triển của mỗi cá nhân và đất nước.

Lễ hội đua trãi ở biển Lăng Cô - Định kỳ vào ngày Mùng 6 Tết hàng năm

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi người dân yếu ớt tức là làm   cho cả nước yếu ớt một phần; mỗi người dân mạnh khỏe, tức là góp phần cho cả nước mạnh khỏe. Vậy nên luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước. Việc đó không tốn kém, khó khăn gì, gái trai, già trẻ, ai cũng nên làm và ai cũng làm được. Mỗi người lúc ngủ dậy, tập ít phút thể dục, ngày nào cũng tập thì khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ. Như vậy thì sức khỏe. Dân cường thì nước thịnh. Tôi mong đồng bào ta ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi ngày nào tôi cũng tập”.

Cùng với những thành tựu về chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội của đất nước, sự nghiệp thể dục, thể thao ở tỉnh Thừa Thiên Huế đã có bước phát triển mới. Bên cạnh các môn thể thao thành tích cao, phong trào thể thao quần chúng, trong đó có thể thao dân tộc tiếp tục phát triển sâu rộng trên địa bàn, thể hiện ở sự gia tăng về số lượng người tập thường xuyên, sự phát triển đa dạng của các loại hình tập luyện. Các hoạt động thể thao dân tộc gắn liền với nhiều lễ hội, các hoạt động truyền thống, điển hình như Festival Huế được duy trì tổ chức 2 năm/ lần và Festival Nghề truyền thống Huế cũng được duy trì tổ chức 2 năm/lần tại thành phố Huế; lễ hội Sóng nước Tam Giang tại huyện Quảng Điền; lễ hội Thuận  An biển gọi tại biển Thuận An, huyện Phú Vang; lễ hội Lăng Cô huyền thoại biển tại bãi biển xinh đẹp Lăng cô, huyện Phú Lộc; Hội thi Văn hóa - Thể thao các dân tộc miền núi Thừa Thiên Huế... Những trò chơi dân gian, các môn thể thao dân tộc được lưu giữ, tái hiện và đưa vào thi đấu hàng năm đã góp phần bảo tồn và phát triển các môn thể thao dân tộc. Ngành Thể dục, Thể thao tỉnh cũng như các đơn vị quản lý Nhà nước về  các lĩnh vực liên quan đã tích cực phối hợp triển khai các hoạt động góp phần vào quá trình này, nhất là việc đưa vào chương trình thi đấu các Đại hội Thể dục, thể thao các cấp.
 

Lễ hội đấu Vật làng Sình, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang - Ngày 10 tháng Giêng âm lịch hàng năm
Thi đẩy gậy tại Ngày hội văn hóa, thể thao các dân tộc miền núi tỉnh Thừa Thiên Huế (được tổ chức 2 năm 1 lần)
Thi đấu Cờ Người vào dịp Festival Huế và Festival Nghề truyền thống Huế hàng năm

Các giải thể thao ở cơ sở được tổ chức trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc, các ngày lễ lớn trong năm đã diễn ra sôi nổi và thu hút nhiều người tham gia; nhiều hoạt động thể thao như Lễ hội Vật Làng Sình, Lễ hội Vật Thủ Lễ; thi đấu Cờ người, biểu diễn Võ cổ truyền, đua ghe, đua trãi, đẩy gậy, các giải bóng đá, bóng chuyền, cầu lông... tiếp tục được duy trì và phát triển ở nhiều địa phương. Sở Văn hóa và Thể thao (trước đây là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) định kỳ phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện Nam Đông, A Lưới tổ chức Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch các dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế 2 năm 1 lần thu hút đông đảo vận động viên là đồng bào dân tộc tham gia; trong chương trình ngày hội, Ban Tổ chức đã lựa chọn một số bộ môn thể thao dân tộc, thể thao dân gian đưa vào thi đấu như: bắn cung, ném lao, ném còn, vật,… qua đó, tuyển chọn và thành lập được đội hình vận động viên các dân tộc thiểu số tỉnh tham dự các Đại hội thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc, khuyến khích các môn thể thao dân tộc phát triển.

Ở cấp tỉnh một số môn thể thao dân tộc đã thể hiện được vị trí quan trọng như môn võ Cổ truyền đã được nhân rộng với đội ngũ võ sư khá đông đảo, góp phần thu hút lực lượng tham gia luyện tập. Hệ thống võ đường thuộc các môn phái võ Dân tộc trên địa bàn toàn tỉnh khá đa dạng, các võ sư đã tận dụng các cơ sở như trường học, cơ quan, sân tập, công viên... để luyện tập vũ thuật cho võ sinh. Theo thống kê sơ bộ, ước tính mỗi xã, phường, thị trấn có từ 1 - 2 võ đường (có nơi chỉ là sân tập), riêng trên địa bàn thành phố Huế con số này lớn hơn rất nhiều. Điều đáng quan tâm việc duy trì, khôi phục môn vật dân tộc tại Thừa Thiên Huế khá thành công thông qua việc ngày càng quy chuẩn hóa lễ hội Vật Làng Sình (huyện Phú Vang), khôi phục thành công Vật Thủ Lễ (huyện Quảng Điền), từng bước phục hồi một số môn thể thao phổ biến dưới triều Nguyễn như Cờ Người, môn phái võ dân tộc Vạn An, Hội thi Tiến sĩ Võ...

Tuy nhiên, trong thực tế còn khá nhiều môn thể thao dân tộc ít được quan tâm tổ chức, chỉ mang tính đơn lẻ của từng địa phương, của từng lễ hội, chưa nhân rộng thành các môn thể thao trong thi đấu. Điều này đã làm cho thể thao dân tộc chỉ đang trong mức là lưu giữ, chưa được phát huy tốt cho toàn xã hội. Trong hệ thống thi đấu thể dục, thể thao của tỉnh, nhất là các giải, các đại hội thể dục, thể thao chưa có nhiều môn thể thao dân tộc, do vậy, sự quan tâm của các huyện, thị xã, thành phố Huế cũng như cấp xã, phường, thị trấn đã bị giảm đi. Hệ thống các văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện quy chế về tổ chức lễ hội thể thao, phong danh hiệu, các tiêu chí còn ít, chưa sát với thực tiễn. Chế độ chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển thể dục, thể thao đối với các đối tượng xã hội đặc biệt, đồng bào dân tộc thiểu số, người cao tuổi, người khuyết tật còn thiếu. Việc xây dựng quy hoạch phát triển thể thao dân tộc gắn với hoạt động văn hóa, du lịch chưa đồng bộ.

Hội nhập quốc tế đang đặt ra nhiều thách thức đối với nền thể dục, thể thao truyền thống của nước ta hiện nay. Quá trình hội nhập sâu đang mở ra nhiều cơ hội để giao lưu văn hóa với các quốc gia, trong đó có sự giao lưu trên lĩnh vực thể dục, thể thao, nhưng đồng thời cũng đặt ra vai trò quản lý Nhà nước về thể dục, thể thao nói chung và thể thao dân tộc nói riêng là làm sao vừa phải tiếp thu các thành tựu trong quản lý thể dục, thể thao, tiếp cận với các bộ môn thể thao hiện đại của thế giới, vừa phải bảo tồn các bộ môn thể thao dân tộc, tránh không để bị mai một, lãng quên. Trong đó, một vấn đề cơ bản đặt ra là phải làm sao để vừa tiếp thu có chọn lọc các môn thể thao hiện đại, song phải gắn liền với việc kiểm tra, kiểm soát điều kiện đảm bảo để nhân dân tham gia không ảnh hưởng đến sức khỏe; mặt khác, với các quy định khắc khe của các giải thi đấu lớn của khu vực và thế giới đòi hỏi các nhà quản lý về thể dục, thể thao phải thường xuyên nâng cao năng lực, trình độ quản lý, nhằm đưa nền thể dục, thể thao Việt Nam tiến kịp và hòa nhập cùng với thể thao quốc tế, song vẫn giữ vững những nét văn hóa vốn có và bản sắc riêng của thể thao dân tộc. Điều này đặt ra nhiệm vụ trước mắt là cần tăng cường vai trò Quản lý nhà nước nhằm bảo tồn và phát triển thể thao dân tộc đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Nhằm nâng cao hơn nữa công tác quản lý Nhà nước để thể thao dân tộc tiếp tục được bảo tồn và phát huy trong giai đoạn hiện nay, trước hết, cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với sự nghiệp phát triển thể thao, nhất là thể thao dân tộc, trong đó, quản lý Nhà nước giữ vai trò chủ yếu; đảm bảo tốt quan hệ giữa phát triển thể thao thành tích cao với thể thao quần chúng nói chung và thể thao dân tộc nói riêng. Ở đây, thể thao thành tích cao vừa là động lực, vừa là hạt nhân góp phần phát triển thể thao dân tộc, và thể thao dân tộc là một bộ phận của thể thao quần chúng đóng vai trò cơ sở để phát triển thể thao thành tích cao trong hoạt động thể dục, thể thao nói chung.

Thứ hai, phải thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao kiến thức và hiểu biết về các quy định của pháp luật liên quan đến quản lý Nhà nước về thể dục, thể thao, các quy định nhà nước về nội dung, điều kiện hoạt động thể dục, thể thao cho các tầng lớp nhân dân trên các phương tiện thông tin đại chúng. Liên hệ lồng ghép hoạt động của ngành Thể dục, Thể thao với các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội để phát triển thể thao dân tộc; phát triển các nhóm câu lạc bộ thể thao dân tộc; tổ chức các hoạt động rèn luyện thể lực gắn với các bộ môn thể thao dân tộc...

Thứ ba, cần xác định một trong những nhiệm vụ chủ đạo của quản lý nhà nước về thể dục, thể thao là tạo hành lang pháp lý và các điều kiện cho các môn thể thao dân tộc được bảo tồn, phát triển. Định chế quy trình, niên hạn tổ chức các đại hội thể dục, thể thao các dân tộc thiểu số, các ngày hội, các giải thi đấu các môn thể thao cổ truyền của dân tộc. Chỉ đạo tổ chức lễ hội thể thao, các giải thể thao gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và các hệ thống tiêu chí xây dựng làng văn hóa, cơ quan văn hóa. Xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách của địa phương đối với phát triển thể dục, thể thao đối với các đối tượng xã hội đặc biệt, đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiên việc khôi phục, quy hoạch phát triển thể thao dân tộc; tổ chức sưu tầm, thống kê phân loại các trò chơi vận động dân gian; tổ chức hoạt động và quản lý đối với các môn võ cổ truyền dân tộc.

Thứ tư, cần xác định ý nghĩa quan trọng của việc gắn kết giữa quá trình quản lý Nhà nước về thể thao dân tộc với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế; gắn các phong trào thể thao dân tộc với công tác quản lý Nhà nước về văn hóa và du lịch, dịch vụ. Ở đây, công tác quản lý Nhà nước về các mặt đời sống xã hội luôn nằm trong một tổng thể chung của quá trình quản lý đối với chính quyền các cấp. Xuất phát từ định hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển dịch vụ và du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV; chủ trương của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về phát triển thể dục, thể thao thông qua xã hội hóa, ngành Thể dục, Thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế cần phải xúc tiến các bước để đưa công tác quản lý Nhà nước về thể thao dân tộc gắn liền với quá trình quản lý Nhà nước về kinh tế, du lịch, văn hóa, trong đó tổ chức các hoạt động thể thao dân tộc gắn liền với phát triển văn hóa, du lịch của địa phương, xem thể thao dân tộc là nhân tố góp phần phát triển kinh tế - du lịch của Thừa Thiên Huế.

Thứ năm, cần tiếp tục nghiên cứu đổi mới chính sách đãi ngộ, ban hành những quy chế đặc thù cho các vận động viên, huấn luyện viên đạt được nhiều thành tích trong thi đấu các bộ môn thể thao dân tộc; kết hợp hài hòa vinh danh, động viên tinh thần và vật chất. Đẩy mạnh chuyên nghiệp hóa, xã hội hóa; thực hiện lộ trình chuyên nghiệp hóa một số môn thể thao dân tộc gắn với hoạt động kinh doanh giải trí; khuyến khích các đơn vị, tổ chức đầu tư cho thể thao; thí điểm chuyển giao một số hoạt động trong lĩnh vực thể dục, thể thao nói chung và thể thao dân tộc nói riêng cho các tổ chức xã hội. Mở rộng giao lưu, tăng cường hợp tác, vận động thu hút các nguồn tài trợ, các nguồn vốn đầu tư cho bảo tồn và phát triển thể thao dân tộc.

Thứ sáu, cần chú trọng việc hình thành một hệ thống các Liên đoàn thể thao, Hội thể thao từng môn, từ cấp tỉnh đến cấp huyện và cơ sở xã, phường, thị trấn. Vừa khuyến khích các liên đoàn phát triển, vừa tăng cường quản lý Nhà nước để các liên đoàn hoạt động đúng hướng. Tăng cường mở các lớp hướng dẫn viên, trọng tài các môn thể thao phổ biến, nhất là các bộ môn thể thao dân tộc để từ đó vừa thu hút nhiều người tập luyện và vừa làm nòng cốt trong điều hành các giải thể thao dân tộc đảm bảo đúng quy định của pháp luật và chuyên môn.

Thứ bảy, cần đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước về khai thác, sử dụng các công trình, trang thiết bị thể dục, thể thao hiện có, tạo mọi điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu tập luyện và thi đấu của quần chúng nhân dân; quy định về tổ chức thi đấu, thực hiện xã hội hóa đối với các hoạt động thể dục, thể thao ở cơ sở, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường và cải tiến hệ thống thi đấu thể thao quần chúng, thể thao dân tộc theo hướng xã hội hóa, khuyến khích khai thác các nguồn kinh phí tài trợ từ các tổ chức, cá nhân nhằm nâng cao tính hấp dẫn trong việc tiến hành tổ chức thi đấu các giải thể thao dân tộc cấp tỉnh, thu hút đông đảo quần chúng tham gia tập luyện và thi đấu.

L.H.T  
(TCSH362/04-2019)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.