Đáp lời con quái Sphinx hay cội nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu

08:53 29/09/2008
ĐỖ LAI THÚYCon gì sáng bốn chântrưa hai chântối bốn chân?Câu đố của Sphinx

1. Một sáng đầu đông 1985, trời se lạnh, bầu trời như một tấm màn xám rũ xuống thành phố. Không khí này dễ làm người ta bứt rứt khó chịu, đứng ngồi không yên. Tôi rủ anh Đào Hùng ra quán cóc trước cửa nhà xuất bản Ngoại Văn làm chén trà nóng. Bất ngờ một đám tang diễu qua trước mặt chúng tôi dọc theo đường Trần Hưng Đạo. Xe tang chất đầy hoa trắng chứng tỏ người chết là một trai tân, nhưng sau xe, cạnh quan tài, lại có một thiếu phụ chít khăn trắng theo kiểu trở tang chồng. Anh Hùng bảo đây là đám tang nhà thơ Xuân Diệu. Tôi lưu ý anh điều nghịch lý trên mà dường như cả dòng người tiễn đưa dài dặc không ai để ý. Anh bảo mọi người đều biết cả đấy, nhưng làm ra vẻ không thấy mà thôi, chỉ cậu mới từ lính về là còn đủ ngây ngô để nhận ra bộ quần áo ấy của Hoàng đế.

2. Thế hệ tôi, học sinh nông thôn những năm 60 thế kỷ trước, trừ bài Ngói mới trong sách giáo khoa, hầu như không biết gì về thơ Xuân Diệu, đặc biệt là thơ tình của thi nhân. Thời ấy, tình yêu lãng mạn gần như một cấm kỵ. Chỉ mãi đến cuối thập niên này, khi đã quen với nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh ở nơi sơ tán Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, tôi mới được ông cho xem cuốn sổ tay chép đầy thơ tình Xuân Diệu sau Bốn Nhăm. Những bài thơ chưa (hoặc không) được xuất bản. Tôi đặc biệt ấn tượng với những bài Đời anh em đã đi qua, Ngọn đèn bên cửa sổ... Rồi bài Biển do chính tay nhà thơ chép tặng nhà phê bình, có kèm theo lời ghi chú “Đây mới chính là Xuân Diệu!”.
Đầu năm 1970, khi Trường từ Thanh Miện, Hải Dương chuyển về Cầu Giấy, mỗi buổi chiều tôi đều đạp xe sang Thanh Xuân, vào thư viện Khoa Văn Tổng hợp, đọc nhờ “sách đọc hạn chế”: Thơ Mới và văn xuôi Tự lực Văn đoàn. Thế là tôi được tiếp xúc Thơ ThơGửi hương cho gió của Xuân Diệu. Cả một thế giới đầy ánh sáng, âm thanh, màu sắc, hình khối, nhịp điệu ùa vào không gian hoang dã hồn tôi. Điều sốc nhất, với những chàng sinh viên yêu thơ Ônga Becgôn và văn Pautôpxki thuở ấy, là những bài tình được Xuân Diệu tỏ bày một cách trực tiếp bằng một giọng điệu van vỉ, thiết tha. Tôi mường tượng đến những trang tuyệt sắc giai nhân đã từng là cội nguồn sáng tạo của thi nhân...

3. Anh Đào Hùng bảo, người đàn bà trên xe tang ấy là nữ đạo diễn Bạch Diệp(1). Người hâm mộ thơ Xuân Diệu, cảm thương cuộc đời thi nhân, đã tình nguyện sống với nhà thơ như một người tình, người vợ. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Bạch Diệp rút lui. Xuân Diệu rất đau khổ:
Từ nay anh lại trên đời
Bữa cơm lại với một đôi đũa cầm,
Giường kia một chiếu anh nằm,
Phòng văn một bóng đăm đăm sớm chiều.
Muôn ngàn cảm tạ em yêu
Chất cho anh được bao nhiêu ân tình,
Cho hay anh đã để dành
Nén hương một thuở thơm thanh suốt đời,
Sống bằng nhớ lại nguồn vui.
Nhớ khi ôm cả đất trời cùng em.
Vụt qua cuộc đời Xuân Diệu như một luồng sáng, Bạch Diệp đã để lại cho thi nhân một chiếc lá vĩnh cửu. Vậy mà, về sau, tôi lại nghe nói khúc thương tâm(2) này của Xuân Diệu không phải dành cho Bạch Diệp, mà Hoàng Cát. Nhà báo trẻ, điển trai này cũng rất hâm mộ Xuân Diệu và được thi nhân thâu nhận làm em nuôi. Sau sự cố Cây táo ông Lành đụng đến đại gia thơ Tố Hữu, nên anh bị/được đi B. Xuân Diệu có nhiều bài thơ tiễn Cát đã đăng báo, chỉ riêng bài này là còn ém ở sổ tay. Kể từ lúc hai người quen nhau đến lúc Cát đi chiến trường là đúng bốn năm.
Bốn năm, nhưng cũng qua mau,
Cõi trần ai được ở lâu thiên đường.
Giã từ, từ biệt, đôi phương,
Đôi nơi, đôi ngả, đôi đường, khổ anh
Bốn năm lại khép trời xanh
Nhớ em như một mộng lành mà thôi...

Thế là, bài thơ tình ai cũng tưởng là nam nữ bây giờ thành nam nam; và người em nuôi của Xuân Diệu hóa ra người bạn trai của nhà thơ. Nhưng Hoàng Cát, có lẽ, chỉ là một trong nhiều vì sao nhỏ bị hút vào ngôi sao lớn Xuân Diệu. Còn một hành tinh khác, cùng tầm cỡ, cặp với Xuân Diệu là nhà thơ Huy Cận, bạn và em vợ thi nhân. Họ trở thành một ngôi sao đôi, vừa tự quay quanh mình vừa quay xung quanh nhau, cứ thế đi suốt quỹ đạo đời mình(3).
Trong một xã hội yếm thông tin, hoặc nếu có lại là thông tin miệng, nghe thì nghe vậy mà tôi vẫn bán tin. Chỉ mãi đến khi đọc hồi ký Cát bụi chân ai(4) của nhà văn Tô Hoài, tôi mới tin hẳn. Cùng sống với nhau ở Việt Bắc, Xuân Diệu đã quyện Tô Hoài. “Dịu dàng âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiện quá, hơi lạ với tôi, nhưng mà tôi cảm động... Thỉnh thoảng Xuân Diệu lên nhà tôi... Xuân Diệu yêu tôi” (tr. 168, 169). Rồi “Hằng đêm Xuân Diệu hay sang giường các bạn trai của ông để tỏ tình âu yếm. Các bạn của ông ấy rất sợ, vì vậy cứ đêm đêm họ lại đi tỵ nạn sang nhà khác, không ai dám ở chung với Xuân Diệu” (tr.171). Còn Tô Hoài thì, có lẽ, không sợ. Bởi thế, đêm đêm ở cái U Tì Quốc ấy (chữ của Xuân Diệu) mới diễn ra cái cảnh làm tình ma quái cho đến khi nhà thơ bị kiểm điểm.

4. Câu chuyện Xuân Diệu có phải là đồng tính không đến đây hẳn không còn là vấn đề nữa. Vấn nạn To be or not to be đã được giải quyết. Nhưng ở tôi lại nảy sinh một vấn đề mới: Với tư cách một nhà phê bình, liệu tôi có nên viết về điều đó? Còn nhớ, khi Tô Hoài công bố những dòng hồi ức của ông trên Tiền phong chủ nhật thì rất nhiều người đã phê phán ông nhẫn tâm. Nhưng với người viết hồi ký điều quan trọng là sự thật, mà đây lại là một sự thật hấp dẫn. Hơn nữa, chính Tô Hoài cũng đã không ngại ngần đem mình ra làm kép chính trong những trò chơi tình ái ấy của Xuân Diệu. Vậy nên, người ta cũng dễ thể tất cho ông. Còn tôi, đã không có cái thuận của nhà văn, lại phải hứng thêm cái nghịch của nhà phê bình.
Viết điều đó, liệu tôi có gieo thất vọng cho người đọc như chính tôi trước đây đã từng thất vọng? Xuân Diệu không chỉ nổi tiếng là “Ông Hoàng thi ca” của Thơ Mới, mà còn là “Vua Thơ tình”. Cái ngai thơ ấy liệu có sụp đổ, nếu giờ đây người đọc biết rằng nàng thơ của thi nhân lại là một đấng mày râu? Những cặp tình nhân dị giới yêu thơ ông liệu có cảm thấy mình bị phản bội? Hơn nữa, liệu đây có phải là “chuyện cá nhân” của nhà thơ, mà luật bảo vệ quyền được riêng tư cấm mọi xâm phạm?
Đối diện với ngần ấy những câu hỏi, ai không bối rối. Nhưng, nhà thơ khác với người thường ở chỗ mà cuộc đời họ, nhất là sau khi đã khuất, thuộc về công chúng, khi chúng ta được quyền gọi họ một cách xách mé bằng cái tên trần trụi như Tản Đà, Xuân Diệu là đã thuộc về nghệ thuật. Bởi lẽ, ngoài sự nghiệp thi ca, bản thân cuộc đời họ cũng là những giá trị văn hóa. Vì thế, người ta có quyền biết và tìm biết mọi bí mật riêng tư. Không phải để thỏa tò mò, mà chủ yếu để chiêm nghiệm một cuộc đời với tất cả những thánh thiện và phàm tục của nó, với tất cả những biểu hiện đa dạng của nó. Hơn nữa, với nhà phê bình, điều quan trọng hơn là từ cuộc đời lý giải, soi sáng cho một sự nghiệp thi ca. Bởi lẽ, thi ca bao giờ cũng là sự thách đố. Và, với trường hợp Xuân Diệu, đó là thách đố của con quái Sphinx.

5. Tình yêu đồng giới, xét từ nguồn gốc và bản chất, là tự nhiên, sản phẩm hoặc một dạng thức của tự nhiên. Platon, một hiền triết Hy Lạp cổ đại, trong luận văn Bữa tiệc cho rằng, loài người tự cổ xưa có ba giới là nam - nam, nữ - nữ và nam nữ. Họ có bốn tay, bốn chân, hai đầu và, vì thế, rất khỏe nên nảy sinh ý định chống lại thần Zeus. Vị thần của các vị thần này bèn nổi giận và cắt đôi họ ra thành hai nửa riêng biệt. Các nửa này suốt đời kiếm tìm nhau để hợp một. Những nửa trước đây vốn là hợp thể nam - nữ thì chỉ tìm người dị giới, còn các nửa trước đây là nam - nam hoặc nữ - nữ thì chỉ say mê với cái nửa đồng giới kia của mình. Tình yêu đồng giới khởi nguồn là như vậy.
Huyền thoại trên khẳng định rằng con người, về mặt sinh học, vừa là đồng giới vừa là dị giới. Điều này rất phù hợp với những phát hiện của bào thai học. Đứa trẻ khởi nguyên là một thể lưỡng tính. Chỉ khi phát triển đến một giai đoạn nào đó thì nó cũng mới trở thành phái tính. Nhưng dù là trai hay gái hoặc sau này là đàn ông hay đàn bà thì nó cũng không bao giờ xóa bỏ hết được dấu vết của nửa kia của nó, cả ở cạnh khía giải phẫu lẫn cạnh khía tâm lý. Bởi thế, C.G. Jung cho rằng trong chiều sâu tâm lý, con người có cả hai yếu tố nam nữ. Trong người đàn ông thì có linh âm (anima), còn trong người đàn bà thì có linh dương (animus). Suốt đời người đàn ông sẽ đi tìm ở những người đàn bà cái anima của mình, tức Người Đàn Bà Vĩnh Cửu (V.Soloviev), Nữ Tính Vĩnh Hằng (A.Blok), hoặc Gái Muôn Đời (Đinh Hùng). Còn người đàn bà thì thường đi tìm animus của mình ở một người đàn ông nào đó. Nhưng nếu linh âm ở người nam không may (hoặc may?) lại mang đậm nam tính, hoặc linh dương ở người nữ lại mang đậm nữ tính, thì họ sẽ đi tìm nửa kia của mình ở những người đồng giới.

S. Freud thì lại cho rằng, đứa trẻ sau khi vượt qua được giai đoạn Oedipe, tức tình yêu của bé (trai hoặc gái) hướng tới thân sinh khác giới (mẹ hoặc cha) của mình và trước khi đứa trẻ ấy biết hướng tình yêu của mình vào những đứa trẻ khác giới cùng lứa để trở thành một nhân cách hoàn chỉnh, thì trong thời gian trung chuyển đó nó rất thích những người cùng giới. Và, nếu vì một lý do tâm - sinh lý nào đó, đứa trẻ không vượt qua được bước đi ngắn ngủi mà quan trọng này thì suốt đời nó sẽ bị cầm tù trong tình yêu đồng giới.
Như vậy, tình yêu đồng giới nhìn chung là bẩm sinh, là tự nhiên. Nhưng cũng có thứ tình yêu đồng giới do văn hóa. Những gia đình hiếm muộn con trai thường bắt con gái mặc giả trai, giáo dục kiểu con trai, dần dà em bé tập nhiễm nam tính nên khi trưởng thành đâm ra yêu con gái. Hoặc trong những thế giới khép kín chỉ toàn nam hoặc toàn nữ như trường học nội trú, nhà tu, nhà tù, quân đội thì tình yêu đồng giới càng dễ nảy sinh. Trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng có hai cô gái Ngẫu quan và Nhụy quan thường một đóng vai đào một đóng vai kép nên đã yêu nhau. Hiện tượng này lại được đạo diễn điện ảnh Trần Khải Ca dựng lại trong Bá vương biệt cơ, nhưng lần này thì cả hai đều kép, một vào vai Sở Bá vương và một vào vai ái thiếp Ngu Cơ. Tình yêu đồng giới do hoàn cảnh, thì khi hoàn cảnh mất đi tình yêu cũng mất. Nhưng cũng có khi hoàn cảnh thay đổi mà tình yêu vẫn còn, ấy là vì hoàn cảnh ấy không phải là nguyên nhân mà chỉ là điều kiện, là cái cớ cho xuất hiện một xung lực bản năng mạnh mẽ hơn, bền lâu hơn.

Tình yêu đồng giới ban đầu được xã hội thừa nhận, coi đấy như một bản chất tự nhiên của con người. Ở thời cổ Hy Lạp đồng tính nam phát triển rất mạnh, thậm chí còn được tôn vinh. Các hiền triết như Socrate, Platon, Aristote đều có bồ trai là học trò. Điêu khắc Hy Lạp, vì thế, rất  tôn sùng cơ thể đàn ông. Sau thời phóng dục này lại đến thời cấm dục Cơ đốc giáo, đồng tính luyến ái bị coi là phản tự nhiên, bệnh hoạn và bị xử phạt nghiêm khắc. Rồi đến thời Phục hưng với chủ nghĩa nhân văn, tình yêu đồng giới lại được nới lỏng. Ở Trung Hoa cũng vậy, thời Thương Chu quan niệm về tình dục rất gần với tự nhiên, nên con người được buông thả, nhiều tư liệu có ghi chép các hiện tượng luyến ái đồng tính. Thậm chí, đến đời Hán, dù Nho giáo đã trở thành chính thống, các hoàng đế đều vẫn chọn một số trai đẹp làm bồ. Nhưng từ đời Tống thì vấn đề tính dục nói chung và đồng tính luyến ái nói riêng lại bị thít chặt. Như vậy, tình yêu đồng giới từ xưa đến nay, từ Tây sang Đông điều có và dao động theo con lắc lỏng - chặt - lỏng - chặt.

6. Xuân Diệu sống trong một thời kỳ chặt. Xã hội Việt tuy bước vào buổi Âu hóa, những ảnh hưởng của Nho giáo còn rất nặng nề. Tống nho phân biệt chính tà rất nghiêm ngặt. Đặc biệt trong lĩnh vực tình yêu, tình dục. Tình dục chỉ được coi là chính dâm khi thực hành trong hôn nhân và nhằm mục đích sinh con đẻ cái. Còn hết thảy đều là tà dâm. Tình yêu cũng vậy. Chỉ chính đáng trong hôn nhân và giữa vợ với chồng. Tình yêu đồng giới, vì thế, là không được phép. Trái với tự nhiên đã đành, mà trái cả với xã hội. Thậm chí, ngay châu Âu lúc này hãy còn rất bảo thủ về mặt tình dục. Nhiều tiểu thuyết của H. Miller và D.H. Lawrence chỉ được phát hành ở Cựu Lục Địa sau cuộc Cách mạng Tình dục tháng Năm 1968. Bởi thế, tình yêu đồng giới bị đặt ra ngoài lề.
Tuy nhiên, thời Xuân Diệu còn là thời của chủ nghĩa lãng mạn. Thời đề cao cái tôi cá nhân cá thể. Hứng khởi lãng mạn đã khuyến khích con người sống hết mình. Để khẳng định bản ngã, người thời ấy không chỉ nương theo xã hội, mà còn dám bất chấp xã hội. Là đứa con của thời đại, Xuân Diệu trước hết là người lãng mạn. Ông có khát vọng thành thực, trước hết là thành thực với bản thân. Bởi thế, hẳn ông dám nói về tình yêu đồng giới của mình.

Thực ra, tình yêu đồng giới là tự nhiên và bình thường. Nhưng vì xưa nay, số người đồng tính bao giờ cũng ít hơn số người dị tính, nên họ bị coi là thiểu số. Mà thiểu số thì bao giờ cũng chịu áp lực của đa số. Thế là, dưới áp bức của số đông, số ít ấy trở nên không bình thường, tức bệnh hoạn. Người ta sợ, ghét và xa lánh họ. Nhưng người đồng tính hẳn không nghĩ thế, vì họ coi mình là tự nhiên, là bình thường. Họ đòi quyền được bình đẳng với đa số. Bởi thế, những kẻ thiểu số này có nhu cầu phải nói ra để được cảm thông và được thừa nhận. Và Xuân Diệu đã nói!
Khát vọng nói ra một sự thật, dù cái sự thật ấy, trong mắt kẻ khác, là sự bất toàn của chính người nói. Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến câu chuyện một anh thợ cắt tóc phát hiện ra ông vua nọ có cái tai lừa. Nhà vua cấm anh ta không được nói cho ai biết. Cất giữ sự thật trong im lặng, anh ta không chịu nổi, nhưng nói ra thì lại sợ mất đầu. Người thợ cắt tóc bèn đào một cái hố dưới một khóm cây ven đường, rồi nấp vào đó nói vọng ra: “Nhà vua có đôi tai lừa! Nhà vua có đôi tai lừa!” để người qua đường biết được điều ấy nhưng sẽ tưởng cây nói. Như vậy, biết được một sự thật, tức một thông tin quan trọng nào đó, thì không thể không nói cho người khác biết. Thông tin, đó là nhu cầu sống còn của mọi vật sống, huống hồ con người còn có một công cụ truyền thông tuyệt vời là ngôn ngữ.
Xuân Diệu lại là một nhà thơ. Mà với nhà thơ thì ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp, mà còn là một tồn tại. Làm thơ để vừa khám phá bản thân vừa thể hiện bản thân: một phương thức tồn tại kép. Nhất là với các nhà lãng mạn. Nhất là với Xuân Diệu. Một trong những nhà thơ Việt đi khá xa trong việc phơi mở ý thức cá nhân của mình. Và, biết đâu, nhu cầu phải nói và nói bằng một ngôn ngữ đặc biệt đó chẳng đã khiến Xuân Diệu trở thành Xuân Diệu, một Xuân Diệu - nhà thơ như ta biết?

7. Mở đầu cho tập Gửi hương cho gió, Xuân Diệu coi mình là con chim đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi. Rõ ràng nhà thơ đã khẳng định mình từ nơi khác đến, thuộc về một niềm khác. Đó là thế giới của thiểu số, của núi lạ, của thơ xa lạ đến với thế giới quen thuộc của số đông. Chứng kiến tất cả những gì là khuôn mòn, là lối quen, nên ngứa cổ hót chơi. Tiếng hót chơi, hót không vì mục đích bên ngoài, vụ lợi nào đó của chim, hót chỉ vì ngứa cổ, vì nhu cầu bộc bạch một cái gì đó sâu thẳm ở bên trong, là tiếng lòng Xuân Diệu muốn bộc phát một sự thật bấy lâu bị che kín của mình. Nhu cầu phải nói ra (“Anh phải nói và phải nói”; “Phải nói yêu trăm bận đến ngàn lần”...) cái tình yêu đồng giới của mình.
Xuân Diệu đã nói về điều khó nói ấy bằng cả những lời trực tiếp, hiển ngôn, lẫn những lời gián tiếp, hàm ngôn. Sự chói lòa của hữu thức lẫn sự tối tăm của vô thức ở thi nhân đều căng một sức mạnh như nhau, nhưng sự bùng nổ ngôn từ thì lại khác nhau. Sợi chỉ đỏ này xuyên suốt toàn bộ nghiệp thơ Xuân Diệu và nổi lên rõ nhất bài Tình trai. Có thể nói, bài thơ - chìa khóa này chứa đựng nhiều “tuyên ngôn” của thi nhân: Công khai nói về tình yêu đồng giới của mình ở mặt hữu thức; những chuyển vị của nó ở cảnh giới vô thức; và, cuối cùng, khẳng định một cách tân thơ. Dưới đây, xin nói trước về diện thứ nhất của thi phẩm.   
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine,
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men.
Say thơ xa lạ, mê tình bạn,
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.

Những bước song song xéo dặm trường,
Đôi hồn tươi đậm, ngát hoa hương,
Họ đi tay yếu trong tay mạnh,
Nghe hát ân tình giữa gió sương.

Kể chi chuyện trước với ngày sau;
Quên ngó môi son với áo màu;
Thây kệ thiên đường và địa ngục!
Không hề mặc cả, họ yêu nhau.
Sự “tự thú” của thi nhân ngay ở nhan đề bài thơ. Nếu Hàn Mặc Tử có Gái quê, Nguyễn Bính có Gái xuân, Đinh Hùng có Gái muôn đời như là những biểu tượng của tình yêu tình dục, thì ở Xuân Diệu lại là Tình trai. Và người trai đó là Huy Cận. Sở dĩ tôi nói đến Huy Cận, vì trong bài thơ này có câu Họ đi tay yếu trong tay mạnh làm liên tưởng tới một bài thơ khác Xuân Diệu viết tặng chàng Huy: Với bàn tay ấy ở trong tay/ Tôi đã nguôi quên hận tháng ngày. Hoặc thơ Huy Cận cũng có nhiều những đồng vọng như Ngủ chung, Vạn lý tình... Rồi sau này khi hai người đã sống chung, ở 24 Cột cờ, Huy Cận tả sự song đôi, song hành trên/dưới của hai người: Đêm đêm trên gác đèn chong,/ Cận ngồi cặm cụi viết dòng thơ hay/; Dưới nhà bút chẳng rời tay,/ Bên bàn Diệu cũng miệt mài trang thơ/; Bạn từ lúc tuổi còn tơ,/ Hai ta hạt chín trong mùa nắng trong/; ánh đèn trên gác dưới phòng/ Cũng là đôi kén nằm trong kén trời. Rồi còn cả Hồi ký song đôi nữa. Nhưng thôi, ta hãy trở lại với thực chứng của bài Tình trai.

Thi phẩm nói rõ ràng về hai người đàn ông yêu nhau. Những từ chỉ sự cặp đôi được dùng rất nhiều: hai “hai chàng”, đôi “đôi hồn”, những “những bước”, họ “họ đi, họ yêu”, song song... ám chỉ tình cảm yêu nhau; còn các từ choáng (hơi men), say, mê, tay (yếu) trong tay (mạnh), không hề mặc cả... Chứng tỏ tình cảm của họ rất mãnh liệt, không tính toán. Nếu những từ môi son, áo màu chỉ phụ nữ, thì quên ngó môi son với áo màu khẳng định đây là tình yêu đồng giới, là “tình trai”. Bài thơ kể lại hành trình của hai thi sĩ từ mê thơ, mê rượu đến mê tình bạn rồi mê tình yêu, không hề mặc cả, họ yêu nhau.
Nhưng xã hội không tán thành cái chất thơ xa lạ này. Nó lên án và ngăn trở. Xuân Diệu gọi sự ngăn trở đó là dặm trường, một không gian khó khăn cho sự đi lại, một khoảng cách tâm lý khó vượt qua; là gió sương, một tiểu khí hậu “ngoài trời” lạnh lẽo đối lập với “trong nhà” ấm áp, dễ chịu. Bởi thế, những hành nhân phải vượt qua dặm dài đầy gió sương đó thấy được tình yêu của họ là tiếng hát, tiếng hát ân tình. Đó cũng là động lực để họ bất chấp mọi dư luận, thành kiến. Thái độ khẳng định tình yêu đồng giới của họ được nhà thơ thể hiện qua một loạt những từ phủ định để khẳng định như khinh rẻ (khuôn mòn), bỏ (lối quen), quên (ngó môi son với áo màu), thây kệ (thiên đường và địa ngục), không hề (mặc cả, họ yêu nhau)...

8. Xuân Diệu có một từ đặc biệt để chỉ người bạn tình đồng giới của ông, hoặc đôi khi để chính bản thân ông, nhằm phân biệt với những người yêu dị giới của thiên hạ. Đó là từ bạn si (“Tiếc thuở say nồng, nhớ bạn si”), người si (“Người si muôn kiếp là hoa núi/ Uống nhị lòng tươi tặng khách hờ”!). Si vừa khác yêu ở bản thân đối tượng, vừa cao hơn yêu ở sự đam mê, bị lôi cuốn, không làm chủ được. Bởi thế, si là yêu gần với dục vọng, dục tính, là yêu không có quyền lựa chọn, bởi quyền đó đã thuộc về bản năng, thiên nhiên. Như bông hoa núi (hoang dã) kia, người si tự uống lòng mình, ăn thịt mình để lớn lên. Bởi yêu người thì nhiều, nhưng ít khi được đáp ứng (“Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu”), nên Xuân Diệu thường hay dỗi, ông gọi họ là khách hờ.
Sự hờn dỗi của thi nhân càng tăng khi Huy Cận, người bạn trai của ông đi lấy vợ. (Vốn là người lưỡng tính (bisexuel), Huy Cận yêu và lấy Xuân Như, em gái Xuân Diệu. Biết đâu Huy Cận đã chẳng yêu một Xuân Diệu trong Xuân Như?). Thế là thi nhân dỗi. Bắt chước Ronsard, thi sĩ Pháp thời Phục hưng, vẽ ra cảnh ngày mai tàn úa, để khuyên người yêu hãy hái đóa hồng ngay hôm nay, Xuân Diệu trong Tặng bạn bây giờ cũng vẽ ra cảnh đời sống vợ chồng giờ tuy êm đềm, nhưng tẻ nhạt mai sau để cảnh báo:

Chỉ mấy năm thôi, đủ phận chồng,
Chàng trai tơ mởn đã thành ông.
Không còn mộng dễ ngày tươi trẻ,
Mắt sáng phai rồi, má hóp không.

Em ngồi trông vợ, thấy nàng tiên
Là một người thôi, mộng hão huyền!
Ta bước trên đường kêu gọi mãi,
Nhớ người bạn cũ thủa anh niên.

Em nghe tê  tái dưới hàng mi,
Tiếc thuở say nồng, nhớ bạn si.
Khép mắt buồn xa, em sẽ bảo:
- Có chàng Xuân Diệu, thuở xưa kia...

Sau này, hẳn biết cái không thể là không thể, người si Xuân Diệu không còn làm thơ dỗi nữa. Sự hờn dỗi của thi nhân, vì thế nhiều khi được chuyển sang cho người đọc, đặc biệt là người nghe ông trong những buổi bình thơ, nói chuyện thơ. Và, cũng có thể, lúc này bạn trai Xuân Diệu là cậu em nuôi đang nuôi mộng văn chương, hiền lành và thụ động. Còn Xuân Diệu bây giờ lại là người chủ động. Thi nhân đã nhiều lần tự ví mình là biển “Trời cao trêu nhử chén xanh êm/ Biển đắng khôn nguôi nỗi khát thèm”, nhưng chỉ có lần này Biển mới không phải là biển trầm tư nghìn tuổi, mà là biển trẻ trung, phóng túng đầy sức sống, biểu tượng của khát vọng tự do... yêu.
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê...

Bờ đẹp đẽ cát vàng
- Thoai thoải hàng thông đứng
Như lặng lẽ mơ màng
Suốt ngàn năm bên sóng...

Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi

Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời,
Đến tan cả đất trời,
Anh mới thôi dào dạt...

Cũng có khi ồ ạt
Như nghiến nát bờ em
Là lúc triều yêu mến
Ngập bến của ngày đêm

Anh không xứng là biển xanh
Nhưng cũng xin làm sóng  biếc
Để hát mãi bên gành
Một tình chung không hết.

Để những khi bọt tung trắng xóa
Và gió về bay tỏa nơi nơi,
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa,
Bởi yêu bờ lắm lắm, em ơi!

 Đây mới chính là Xuân Diệu! Đúng như thi nhân tự thú trong sổ tay của Nguyễn Đăng Mạnh. Đúng không chỉ vì đây là một bài thơ hay. Hình tượng đẹp: biển và cát. Mà đúng chất Xuân Diệu, đúng kiểu yêu Xuân Diệu: Thân xác, nồng nàn, vồ vập. Chữ hôn được lặp lại đến 6 lần, rồi được nhấn mạnh thêm bằng những từ như nghiến nát, ngập bến, ào ạt, dào dạt để cuối cùng là hát, tung bọt, bay tỏa nơi nơi... Nhưng cũng còn có một âm thanh, đúng hơn một hình tượng âm thanh, được ngân đi điệp lại nhiều lần là từ cát (cát trắng, cát dài, cát vàng) và từ bờ (cát), (yêu) bờ, và từ bờ em, cát vàng em... Hình tượng âm thanh đó là ẩn ngữ của bài thơ, là tên của bạn trai Xuân Diệu: Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em. Cát vàng là Hoàng Cát, cát vàng em là em Hoàng Cát!
Nhưng rồi Cát đi chiến trường. Xuân Diệu buồn, nhớ, gợi nhắc và hẹn thề:
Em đi để tấm lòng son mãi,
Như ánh đèn chong, như ngôi sao;
Em đi, một tấm lòng lưu lại,
Anh nhớ thương em, lệ muốn trào.

Em hẹn sau đây sẽ trở về,
Sống cùng anh lại những say mê;
Áo chăn em gửi cho anh giữ,
Xin gửi cùng em cả hẹn thề.

Em đi xa cách, em ơi Cát
Em chớ buồn nghe! nhớ anh yêu.
  3/2006
                                                Đ.L.T

(nguồn: TCSH số 225 - 11 - 2007)

 


--------------------
1. Chúng tôi xin trích dẫn Tô Hoài, bởi vì gần đây ông trở thành “người kể chuyện” có uy tín và độc quyền về quá khứ, mặc dù những điều ông kể khớp với những nguồn tin khác của chúng tôi. Dưới đây là lời Tô Hoài trò chuyện với NQV sau khi Cát bụi chân ai  ra đời: “Sau này Xuân Diệu khi đứng tuổi rồi cũng có lấy vợ. Lấy Bạch Diệp là đạo diễn điện ảnh, một người có tuổi và có kinh nghiệm trên đường đời. Bạch Diệp cũng có nghe qua về các vấn đề luyến ái sinh lý của Xuân Diệu, khi hỏi qua bạn bè thì ai cũng cho là Xuân Diệu bị impuissant nên cố gắng chạy chữa chuyện này nhưng vô hiệu quả. Hai người làm đám cưới rất long trọng nhưng không làm giấy kết hôn... Không chính thức cưới nhau trên pháp lý, chỉ ở với nhau vậy thôi. Rồi vài tháng sau khi không đi đến đâu cả thì đôi bên lặng lẽ rút lui. Sau này hai người vẫn giữ tình bạn với nhau. Đến khi Xuân Diệu mất thì Bạch Diệp cũng phúng một vòng hoa trắng. Chuyện hôn nhân giữa hai người trước sau rất ngắn ngủi. Xuân Diệu lại quay về sống một mình, nhưng trước sau vẫn ở chung với Huy Cận”.
2
.                    “Tuyệt vời là khúc thương tâm
                Biết bao tiếng khóc thành ngâm muôn đời”.
   (Xuân Diệu dịch bài Đêm Tháng Năm của A. Musset)
3. “Huy Cận thoạt tiên lấy em ruột của Xuân Diệu tên là Xuân Như. Có được hai con, nhưng sau thì hai người bỏ nhau. Huy Cận về sau lấy vợ khác, nhưng vẫn sống chung với Xuân Diệu cho đến khi Xuân Diệu mất. Xuân Như một phần thì giận Huy Cận, một phần thì giận anh ruột mình. Khi bỏ Huy Cận, cô ấy có nói một câu hơi cay đắng là: “Trong nhà này thì tôi chỉ là vợ lẽ thôi chứ không phải vợ cả”... Chuyện này (tức chuyện đồng tính luyến ái của Xuân Diệu và Huy Cận) đáng lý ra thì cũng bình thường thôi, nhưng vì có lắm kẻ làm quan không muốn xấu mặt nên cứ giấu nhẹm đi. Chẳng hạn như khi tôi đăng dài hạn hồi ký của mình trên báo Tiền Phong thì bị Huy Cận phản đối và chỉ trích kịch liệt. Huy Cận nói là sắp ra Hồi ký về Xuân Diệu gọi là Hồi ký song đôi. Chắc là sẽ không nói đến chuyện đồng tính luyến ái giữa hai người, tuy hai chữ “song đôi” đã có hàm ý này rồi. Đáng lý ra phải nói là Huy Cận và Xuân Diệu đã có quan hệ đồng tính với nhau suốt đời.”
(Tlđd)
4. Xin đọc Cát bụi chân ai của Tô Hoài, Nxb Hội nhà văn, năm 2000, các đoạn trích đều từ bản in này.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).