Đăng Huy Trứ và trăng

10:38 19/03/2008
Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...

Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ.
Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?
Rất yêu. Yêu rất nhiều.
Một tình yêu nhân hậu có từ tuổi thơ khi cậu bé Trứ tuổi 15 mộng mơ đi giữa rừng thông trăng tỏa chiếu :
                Tùng xứng bóng trăng, nguyệt xứng thu
                Trăng đậu cành cong đan ánh mộng
                Nguyệt rung bóng nổi ngả màu mơ
                                                (Trăng sáng chiếu rặng tùng -
                                                "Minh nguyệt tùng gian chiếu")
Tuổi 18, đôi mươi, Trứ đã cảm nhận được mỗi vầng trăng là một chứng nhân thời gian. Thời gian lao động miệt mài (Trăng nhòm cảnh giã gạo), thời gian trong trẻo ấm áp sâu lắng của đêm (Gió đưa tiếng hò chèo đò; Tiếng chuông chùa).
Lúc đi dạy học, thâỳ giáo Trứ có tìm đến trăng như một tri kỷ tri âm. Vẫn là một vầng trăng đầy đặn đáng yêu gợi nhớ quê nhà (Thấy trăng nhớ quê), là vầng trăng 16 đẹp hòa hợp lòng người (Đêm 16, cùng khách lên lầu ngắm trăng), nhưng trăng ở đây đã có gì khang khác. Hình như là dấu hiệu của tình yêu :
                Cẩm Giang giang thượng tứ bồi hồi
                (Cẩm Giang sông bến dạ bồi hồi)
là câu thơ mở đầu cũng đồng thời là câu thơ kết thúc của bài thơ "Trung thu cẩm giang đãi nguyệt" (Trung thu chờ trăng lên sông Cẩm).
"Dạ bồi hồi" này chính là tứ của bài thơ. Tứ thơ này không lộ rõ khi cuộc rượu chưa tàn, khi người chưa tĩnh tại, khi chị Hằng chưa đáp xe đến. Phải đợi trăng. Phải chờ trăng. Như một ngẫu nhỉ tương cờ, như một giọt rơi của lương duyên tiền định :
                Vũ sư sái đạo tần yêu khách
                Phong bá khư vân vị tác môi
                Thiên thượng thanh quang lưu thử dạ
                Cẩm Giang giang thượng tứ bồi hồi
                (Thần mưa tưới lối như bao lần mời mọc
                Dì gió đã xua mây như vì ta mà mối manh với trăng
                Đêm nay trên trời còn lại một ánh sáng xanh
                Ngồi thuyền trên sông Cẩm giang mà dạ bồi hồi)
Ánh sáng xanh được lưu giữ trong đêm như cõi lòng cô đơn bỗng rạo rực yêu một cách đằm thắm dịu dàng. Không biết có phải vì thế mà tú tài Vũ Tá Thứ - người Thọ Tháp - Hà Nội - đã gọi Đặng Huy Trứ là "Trăng Hương Giang" không? Chỉ biết ánh sáng xanh của trăng tình yêu ấy còn được lưu giữ trong trẻo mãi cho đến cuối đời.
Chúng ta biết vào thời ấy - thời Nguyễn Đình Chiểu, Đặng Huy Trứ - con người khoe tài một cách lộ liễu trong văn học đã phải biến ngay nhường chỗ cho con người bổn phận, con người nghĩa vụ, các nhân vật phải rắn đanh lại để lo chống ngoại xâm cứu nước. Nếu có nói đến tài thì chỉ một TÀI cứu nước :
                Những trang dẹp loạn này đâu vắng
                Nỡ để dân đen mắc nạn này ?
                                                (Nguyễn Đình Chiểu - Chạy Tây)
                Chức phận không tròn kém loài vật
                Vẹn tròn chức phận mới là người
                                                (Đặng Huy Trứ).
Với một tuyên ngôn hành động như thế tất nhiên vị quan thanh liêm Đặng Huy Trứ đã "Nguyệt dạ, khước ca nữ" (Đêm trăng, khước từ ca nữ), thường tìm đến trăng như một chỗ dựa thanh cao, tỏ rõ chí khí của mình (Đuổi kẻ đến nhà riêng, Tặng anh phò mã Thiếu Văn, Trên đường về vui mừng làm thơ...)
Bản thân quan Ngự Sử, quan Bố Chánh Quảng Nam, quan Bình Chuẩn Hà Nội - Đặng Huy Trứ - rất hiểu trăng. Trăng là bạn thân. Trăng là tất cả sự giàu có tâm hồn : "Túi rỗng chỉ có gió trăng" (Phong nguyệt nhất nang thanh), "Đã có trăng gió đầy sông, cần gì đến be rượu đầy vơi" (Mãn giang phong nguyệt bất luân tiền). Trăng là một đòi hỏi sáng tạo :
                Đạm nguyệt sơ tinh lại phẩm đề
                (Trăng mờ, sao thưa thớt, đã ngán những đề vịnh như thế)
Không chỉ làm quan trong nước, Đặng Huy Trứ còn được cử đi sứ hai lần sang Trung Quốc vào những năm 1865, 1867-1868. Nhà thơ, họa sĩ Đặng Huy Trứ vẫn có mặt trong những vần thơ đầy tráng khí : Đêm, trở dậy (Dạ khởi), Ra biển (Khai dương). Điều này cũng dễ hiểu thôi, tác giả đã tự bạch khi Được lệnh đi Quảng Đông (Hữu đông hành chi mệnh).
                Phì mã khinh cầu phi ngã chí
                Thừa phong phá lãng xứng ngô cuồng
                Miễn tương "trung kính" hành man mạch
                Hoạn hải ba đào phó lão thương
                (Xuống ngựa, lên xe lòng chẳng thiết
                Đạp bằng sóng gió tính thường ham
                Gắng mang "trung, kính" vào man địa
                Bể hoạn ba đào gởi gió sương).
đã mừng "Cập thử tang bồng chí vị suy" (Đến nay mừng là chí tang bồng chưa suy giảm). Lần đi sứ này Đặng Huy Trứ cải trang làm người nhà Thanh ra nước ngoài làm nhiệm vụ thăm dó, nghiên cứu tình hình (thực chất là sang Quảng Đông - nơi đã bị phương Tây chiếm đóng - xem xét tình hình nhà Thanh thông thương với các nước Pháp - Anh. Tráng sĩ, sứ giả Đặng Huy Trứ tuy bên ngoài phải đổi thay :
                Áo cộc, đuôi sam lạ biết bao
                Ta nay chẳng chút giống ta nào
                                                (Bảo Lý Xuân Mậu)
nhưng tâm hồn trung trinh với Tổ quốc, thủy chung với vầng trăng vẫn nguyên vẹn :
                "Phong tòng Trà Kiệu đầu non dậy
                Nguyệt hướng Thiên Tân hải thượng sinh
                Như thử lương tiêu nan tái đắc
                Phi phàm vạn lý nhất mao khinh
                (Gió từ Trà Kiệu đầu non dậy
                Trăng hướng sao Tân đã mọc lên

                Cảnh đẹp đêm nay khôn thấy lại
                Buồm bay muôn dặm nhẹ như tên)
Gió, trăng, biển, thuyền, chừng như thi đua nhau xuất hiện, giục giã nhau đi lên, bay xa. Cảnh đẹp thật. Đẹp đến mức nhà thơ nao lòng tiếc nuối "Như thử lương tiêu nan tái đắc". Với từ "nan tái đắc" trăng đẹp như mỹ nhân. Đến như Cao Bá Quát xênh xang, dềnh dàng với thơ nôm, mà vẫn giữ lại câu thơ bằng chữ Hán :
                Giai nhân nan tái đắc
                Trót yêu hoa nên dan díu với tình
                Mái tây hiên nguyệt gác chênh chênh
                Rầu rĩ lắm xuân về oanh nhớ.
"Khó gặp lại" này vừa là lời ngợi ca một đêm trăng trên biển đẹp, vừa là nỗi day dứt khôn nguôi của một người Việt yêu nước luôn hận về tài năng không có bài thơ đuổi giặc (Tài tàm thoái lỗ hận vô thi; Độc thị vô tài năng thoái lỗ), luôn nhắc mình nhớ : - Văn chương có bao giờ chống nổi gió bão! (Từ chương tằng hữu phản phong vô).
                Rất yêu trăng.Rất hiểu trăng. Rất nhớ vầng trăng đẹp. Rất nhớ ánh sáng xanh. Nhưng trăng như tình yêu, như hạnh phúc vốn mỏng manh, cực kỳ mỏng manh trong thời chiến chinh loạn lạc.
Nhất là vào thời điểm thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình Nguyễn từng bước đầu hàng, hệ tư tưởng cũ đang sụp đổ, trung quân ái quốc hiểu thế nào đây, làm thế nào đây cho trọn vẹn. Lời tiên đoán "khó gặp lại" được khẳng định bằng không, không gặp lại. Lần đi sứ thứ hai này vẫn là tráng sĩ Đặng Huy Trứ:
"Biên cương bị chiếm chưa khôi phục được, đó là điều tôi cho là khổ nhất", "Trong thiên hạ không có cái nhục nào như cái nhục không được bằng người".
Nhưng nhà thơ Đặng Huy Trứ không còn những vầng trăng đẹp tự thân. Kể cả lúc trung thu ngắm trăng (trung thu đối nguyệt). Tập cổ cũng là thơ nhưng thơ vay mượn của người :
                Mỗi y Nam đẩu vong kinh hoa
                Thả tận Lư Đồng thất uyển trà
                Tưởng đắc cố viên kim dạ nguyệt
                Bất tri thu tứ tại thùy gia?
                (Theo sao, kinh khuyết ngóng xa vời
                Bảy chốn trà đêm uống đã vơi
                Tưởng nhớ vườn xưa trong bóng nguyệt

                Tứ thu chẳng biết ở nhà ai)
Trong trung thu ngắm trăng, chúng ta biết có Thu hứng của Đỗ Phủ (câu 1), có Ẩm trà của Tô Thức (câu 2), có Đề Tân nhạn của Đỗ Tuân Hạc (câu 3) và có Thập ngũ dạ vọng nguyệt của Vương Kiện (câu 4). Đến lời Từ tạ vầng trăng (Tạ nguyệt) cũng là lời thơ của Tô Thức (câu 1, 2 - hai bài thơ khác nhau), thơ Lý Thụy, thơ Từ An Trinh :
                Cô đăng chiếu ảnh dạ man man
                Ngân hán vô thanh chuyển ngọc bàn
                Biệt hận chuyển thâm hà xứ tả?

                Bất như miên khứ mộng trung khan
                (Đèn côi, bóng lẻ, đêm dằng dặc

                Im lặng sông Ngân đã chuyển vòng

                Nỗi hận biệt ly khôn giải tỏ

                Gặp nhau đành ở giấc mơ mòng)
Gộp bao nhiêu tâm trạng thơ lớn về đây cũng không giải tỏa được nỗi lòng lo nhiều mối sao cho "tròn trách nhiệm người trung thần và người con hiếu" ("Viễn điếu" - Nhìn ra xa), nhà thơ đành phải từ biệt, vĩnh viễn chia lìa không gặp lại vầng trăng.
Mà nào trăng có chiếm vị trí nhiều nhặn gì đâu. Trong "Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm [Tuyển tập thơ văn do nhóm Trà Lĩnh sưu tầm, khảo cứu, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành vào năm 1990] có cả thảy trên 340 tác phẩm, gần 30 bài có từ NGUYỆT, chỉ 12 bài tha thiết với vầng trăng.
Thế mới biết Đặng Huy Trứ yêu nước kiên định đến dường nào. Ông đã khẳng định :
                Trâm bút phương tri hữu bút quyền
                (Cầm bút phải biết cái quyền lực của ngòi bút)
Bút quyền của Đặng Huy Trứ đã dành cho đất nước :

                Khởi thị sơn hà tiều tụy thậm

                Cánh đa quai dị độc phong thần

                (Ngước mắt non sông tiều tụy quá
                Buồn sao xã tắc bấy trầm luân)

                                                (Bão lớn)

Cho dân lành :

                Dân không chăm sóc chớ làm quan

                Muốn dân được lợi cần quyền biến

                Tội vạ riêng mang há sợ gì

Cho hoài bão lớn muôn đời :

                Cầu đắc giang sơn xuân bất lão

                Nhật kỳ cường kiện ước thanh mi

                (Giữ được giang sơn xuân sắc mãi
                Ngày xanh, cường kiện hẹn nhau về)
Vì vậy nếu phải tạ từ để giữ mãi trong lòng một vầng trăng đẹp, một tình yêu đẹp, hẳn sự chọn lựa có hy sinh này - Đặng Huy Trứ đã từng trăn trở, đớn đau.
27.7.1994
VÕ THỊ QUỲNH
(nguồn: TCSH, 3.1999) 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.

  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

  • (Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.

  • Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.

  • (Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?

  • “Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời

  • Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.

  • Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.

  • Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.

  • (Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.

  • Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.

  • (Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.

  • Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người

  • Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.

  • Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.

  • Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm