FRANÇOIS CHENG
(Trích từ tác phẩm Khi những linh hồn lang thang trở về)
Dưới gầm trời này, dưới cái gầm trời rất thấp này, tất cả đều có thăng có trầm, tất cả đều bị biến đổi. Tác phẩm về Những đột biến đã chỉ rõ điều đó, tổ tiên chúng ta đã nói: “Cứ năm năm thì có chuyển biến nhỏ, cứ năm trăm năm thì có đại đột biến”.
Ảnh: internet
Trật tự cổ đại cuối cùng đã bị suy sụp, triều đại lâu đời nhà Chu đã trút hơi thở cuối cùng. Giờ là lúc đất nước Trung Hoa rộng lớn bị xé thành vô vàn những hoàng triều kình địch. Đúng ra thì chúng được gọi là những “Hoàng triều tham chiến”. Trên thực tế, những quy tắc danh dự không còn thịnh hành nữa, tất cả mọi trò thượng vàng hạ cám đều được phép sử dụng! Khắp nơi đâu đâu cũng sặc mùi bạo động, bất ổn, hỗn mang, đâu đâu cũng xuất hiện võ đoán tùy tiện và bất công. Sự ham muốn chiến tranh quả không còn biết điểm dừng, những kẻ mạnh ăn sống nuốt tươi kẻ yếu. Chỗ nào có chiến tranh bùng nổ thì nạn cướp bóc và thảm sát trở nên thường nhật.
Khổ thay dân tộc bé nhỏ, khốn thay kẻ bần hàn! Bị thuế khóa nặng nề, bị lao dịch, bị bóc lột tới tận xương tủy, kẻ bần hàn chầy chật để sống sót. Thêm cơn hạn hán, thêm trận lũ lụt, và thế là họ chẳng còn gì bỏ miệng, bụng rỗng, di tản lang thang khắp vùng nông thôn đã bị tàn phá. Họ rách rưới, thảng thốt, bán con bán cháu để đổi lấy khẩu ăn, trước khi ngã gục, chết cứng bên rệ đường.
Dẫu bất hạnh, cuộc sống vẫn tiếp tục. Những thời khắc nghỉ ngơi dẫu sao vẫn dành cho loài người. Đây đó những báu vật của tâm hồn vẫn được bảo tồn: tình bạn keo sơn, tình yêu bất diệt. Ba nhân vật sẽ gắn bó với chúng ta trong câu chuyện này là nhân chứng cho điều ấy. Ba nhân vật khác nhau được tạo nên để hội ngộ. Ba nhân vật bị cuốn vào một thảm cảnh mà nó sẽ kết liền họ mãi mãi. Chúng ta thoạt đầu chú ý đến một khuôn mặt nữ giới. Nàng tên là Chun-niang, “Xuân Phu nhân”.
Chào đời vào một ngày mùa xuân, thì hoàn toàn tự nhiên mà chẳng phải tìm kiếm đâu xa, cha mẹ nàng đặt tên con gái là Chun-mei, “bé Xuân”. Nàng sẽ còn giữ cái tên này cho đến tận năm hai mươi hai tuổi, năm nàng được chọn vào cung điện hoàng gia. Trong suốt những năm sống ở Cung điện, nàng mang cái tên danh dự là Chun-fei, “Xuân Quý phi”. Trở về cuộc sống dân gian sau khi hoàng triều sụp đổ, nhờ tuổi tác, nàng trở thành Chun-niang, “Xuân Phu nhân”. Tất cả đều gọi nàng như thế, cho đến tận lúc nàng về già. Mọi người nghe những gì chúng tôi vừa nói hẳn sẽ nghĩ rằng đó là một cuộc đời đơn giản, bình an, thập chí còn được ưu đãi. Ấy thế mà hoàn toàn ngược lại. Chúng ta khó mà hình dung ra một cuộc đời nhiều xáo động đến thế. Toàn những thử thách tàn độc ngay từ khi mới sáu tuổi, toàn những thảm cảnh dữ dằn mà chính nàng là nhân chứng, toàn những giằng xé đớn đau mà nhiều lần đã nhấn chìm nàng vào vô vọng. Tuy nhiên, làm sao có thể không kể đến chuyện nàng cũng đã từng được nếm trải những thời khắc được chúc tụng, những lúc mà chỉ có niềm đam mê cực độ mới có thể mang lại chứ?
Hai người đàn ông đã bước vào đời nàng, hai nhân vật xuất chúng mà các sự kiện đã biến họ thành những con người huyền thoại. Hành động cao thượng vinh quang và sự hy sinh của họ đã lay động tâm can sâu thẳm của loài người. Chắc chắn họ sẽ ám ảnh trí tưởng tượng của hậu thế, và điều ấy sẽ chẳng có điểm kết. Bằng chứng: hơn ba mươi năm sau những sự kiện đã diễn ra, rất nhiều người từ khắp nơi đổ đến ngôi làng hẻo lánh đó, không ngừng đề nghị Xuân Phu nhân kể cho họ nghe chuyện đã diễn ra như thế nào. Họ nghe câu chuyện bà kể và chỉ xen vào những tiếng thở dài hoặc những lời cảm thán. Liệu bà có thể kể hết được không? Chắc là không đâu! Nếu như bà đã không khó khăn gì để định vị những mối quan hệ bề ngoài của mình với hai vị anh hùng kia, thì làm sao khiến họ cảm nhận được thực tế nóng bỏng của một niềm đam mê đặc biệt chứ? Bà, một phụ nữ, bà không được phép chỉ nói bóng nói gió về chuyện ấy được. Và nhất là, làm thế nào để hé lộ cho họ biết một bí mật còn đặc biệt hơn nữa: Những người đàn ông của bà đã quay về với bà. Sau ba mươi năm lưu lạc bốn phương - điều tưởng chừng là bất tận đối với dương gian, nhưng lại chẳng là gì trên trời cao kia -, nơi linh hồn họ sẽ tìm thấy bà và sẽ đến với bà thôi. Tất cả những đêm trăng tròn, những linh hồn ấy đều ở đây, hiện diện bên bà. Lúc đầu, những tiếng nói tràn đến, va chạm vào nhau, một lát sau, xuất hiện sự trao qua đổi lại có phần trật tự hơn, nhưng vẫn luôn luôn mãnh liệt, luôn luôn dữ dội.
Đặc ân khác thường này từ đâu mà đến với bà vậy? Liệu có phải là một ý nguyện của Trời mà Người hẳn đã rủ lòng đến những thân phận bi thương đã bị chiến tranh loạn lạc giày xéo quá sớm? Hay trừ phi đó là nhờ sự chung thủy của bà, con tim bà luôn bốc cháy tựa ánh nến không bao giờ tắt trước gió đêm, đủ để rọi đường cho khách lữ hành lạc lối tìm về? Sự huyền bí ấy thật khó đoán! Vậy thì trên trần gian, vào một ngày nào đó, ai sẽ giải thích cho chúng ta hiểu cuộc đời của con người này đây? Tại sao lại có quá nhiều nhiệt huyết, quá nhiều trìu mến lẫn vào chừng ấy những cơn thịnh nộ, những đớn đau chứ? Tất cả những gì mà loài người có khả năng thể hiện, chẳng phải chỉ để nói rằng ta đã từng mơ mộng và ta đã từng trải qua đó sao? Thật ra mà nói, nên chăng không phải bằng những mẩu, không phải bằng những đoạn mà bằng toàn bộ những gì đã xảy đến, nên kể theo tiến trình của chúng?
Đêm nay lại là đêm trăng tròn vành vạnh. Trăng quá sáng để chẳng ai có thể nghĩ đến giấc ngủ. Các vị thánh thần trên cao kia cũng cảm động trước điều ấy. Họ mời ba nhân vật của chúng ta giãi bày, nói về thời hiện tại khi họ sẽ thuật lại tất cả những màn đáng nhớ về niềm đam mê và hành động của họ, như thể họ đang sống những cảnh đó. Còn chúng ta, những nhân chứng, họ mời chúng ta đi theo để giúp họ nhớ lại toàn bộ phần nền cho câu chuyện. Giờ thì hãy để họ kể thôi. Hãy để mỗi người trong số họ nói về cội nguồn của mình và làm sao mà họ lại gặp được hai người kia nhé.
Chun-niang
Tôi là Chun-niang. Cha mẹ tôi là những người nông dân nghèo khó, cấy cày trên một mảnh đất cằn. Những gì chúng tôi thu hoạch được chỉ tạm đủ nuôi sống cái gia đình nhỏ bé này mà thôi. Dẫu sao, kỷ niệm những năm đầu đời của tôi cũng vui vẻ. Thế giới trải bày ra trước mắt tôi tựa như một màu xanh thẳm trải dài bất tận, trong hương vị của mùi bùn và rong rêu. Vào mỗi sáng, tiếng gà gáy chói tai lôi tôi ra khỏi giấc ngủ trong căn nhà tối mờ, và buổi tối, tôi lại chìm vào giấc ngủ trong những bài hát ru của lũ dế mèn. Ban ngày, khi mẹ không địu tôi trên lưng để ra đồng làm việc, thì họ để mặc tôi một mình. Mãi hai năm sau đó, em trai tôi mới chào đời. Khi ấy thì tôi mới có những con vật để chơi cùng, đàn gà, lũ chó, những con rùa, cua, và cả những con côn trùng bé ti bé tẹo như bọ rùa, sâu, và giun đất. Bên bờ ao, tôi không bao giờ chán xem cảnh tượng diễn ra liên tục của những con chuồn chuồn bay chợp chờn trên những tàu lá sen, những con chim bói cá thoắt nhào sâu xuống nước để rồi ngay tức thì lại phóng vọt lên, mỏ cắp một con cá. Tôi cũng còn nhớ vào một hôm, người hàng xóm cho chúng tôi một con thỏ bụ bẫm có hai tai dựng đứng và cặp mắt đỏ. Lớp lông trắng tinh của nó rung động khiến tôi muốn vuốt ve và nó đánh thức trong tôi một sự trìu mến thân thiện mà lứa tuổi thơ thường có. Thế là giữa chúng tôi bắt đầu xuất hiện một sự đồng lõa mà không gì có thể khiến thứ tình cảm ấy tổn thương được.
Ấy thế mà chính nó, con thỏ trắng ấy, đã gây cho tôi nỗi buồn đầu đời. Không phải là nó đâu, con vật vô tội đáng thương, mà là con cáo đã cắp nó đi, chỉ để lại một vết máu loang dài bên ngoài chiếc lồng gỗ dành cho thỏ. Tôi đã khóc cay khóc đắng sự ra đi của nó. Chất thêm vào nỗi muộn phiền của tôi là sự hối hận vì đã không bảo vệ nó được chu đáo hơn. Khi ấy mới ngoài bốn tuổi, thì tôi đã ý thức được rằng thế giới này có vẻ ngoài hình như hài hòa, hoạch định bằng bốn mùa thì thực ra đã bị tội ác và bạo động gặp nhấm mất rồi. Sự trong trắng đã bị vấy bẩn và sự dịu êm đã bị xáo tung. Chỉ có sức mạnh bạo tàn ngự trị, luôn gây tao loạn và bất công.
Chưa đầy hai năm sau thì bất hạnh xảy đến. Màu xanh thiên nhiên chuyển sang màu vàng ểnh. Không có mưa, lại bị cái nóng dữ dội hoành hành, đất bắt đầu nứt nẻ. Hạn hán thâm nhập một cách khắc nghiệt, kéo theo một nạn đói khủng khiếp. Bị đói khát thao túng, chúng tôi buộc phải tìm kiếm bất kỳ quả dại nào, bất kỳ vũng nước nào, bất kỳ một ngọn cỏ, hay cả một con côn trùng. Một đêm, ngực lõm xuống còn bụng thì chướng lên, em trai tôi đã thở hắt ra và chết trên cánh tay của mẹ. Hôm sau, được quấn trong một tấm drap, cái thân thể còm cõi của em được đem đi chôn. Cuộc thiên di khắc nghiệt bắt đầu. Chúng tôi cứ đường lớn, nơi đã chất đầy những xác chết, mà đi. Cha mẹ tôi đã rất mệt nhưng vẫn phải thay nhau bế tôi bởi tôi đã hoàn toàn kiệt sức nên không thể tiến thêm bước nào nữa. Ở thế cùng đường, để tôi được cứu sống, họ đã bỏ tôi lại cho một cặp vợ chồng chủ quán trọ để đổi lấy một món tiền còm. Tôi đã bị bán cho người không quen biết như vậy, trong một khoảnh khắc như thế. Khi mà - làm sao có thể quên cảnh ấy nhỉ? - bị hai cánh tay chắc nịch của bà chủ xa lạ giữ chặt, tôi nhìn cha mẹ ra đi, tôi hét lên, những tiếng thét của loài vật bị chặt chân. Còn họ, nức nở khóc và cứ tiếp tục đi xa dần, không dám ngoảnh lại. Tôi chìa tay về phía trước lần cuối như để tóm lấy cái gì đó. Cả thân hình run lẩy bẩy, tôi ngất đi.
Khi tỉnh lại, tôi thấy mình trong một thế giới khác hẳn, một quán trọ cho khách qua đường. Tiếng ngựa hí, mùi phân, tiếng đóng xe, giọng đàn ông khàn khàn đùng đục. Trong suốt nhiều ngày, tôi nhốt mình trong im lặng. Vậy là tôi đang ở trong tay những con người xa lạ, họ chẳng biết gì về tôi và cũng chẳng thèm tìm hiểu để biết tôi. Họ chỉ ra lệnh cho tôi. Tôi chỉ dám thổ lộ tâm tư với cha mẹ khi chỉ còn lại một mình trong đêm, nằm ngủ trên một tấm ván gỗ. Nói cho họ nghe những cơn đau của tôi, nỗi sợ hãi của tôi, nuôi dưỡng niềm hy vọng điên khùng rằng họ sẽ quay lại để chuộc tôi về. Do điều đó đã chẳng xảy ra, tôi đành phải tin rằng có lẽ họ cũng giống như bao người khác, đã chết dọc đường rồi.
Còn về ông bà chủ quán trọ đã mua và nhận tôi là con nuôi ấy, thì tôi buộc phải gọi họ là cha mẹ. Nhưng thay bằng “bố”, “mẹ”, tôi gọi họ bằng “cậu” “mợ”. Tôi dần dần quen với những con người này, rút cục, họ cũng không ác lắm. Cả hai đều ục ịch, họ có một phong cách cục cằn, làm một nghề cục cằn. Chưa sáng đã thức dậy, họ làm việc thường xuyên đến tận đêm, vào giờ mà những người chở hàng muộn đến nơi, mang theo tiếng ồn ã của ngựa và xe. Do không có con, nên họ có một hai người trợ giúp, tùy theo nhu cầu.
Sau một thời gian thì chúng tôi cũng buộc phải rời khỏi vùng hạn hán ấy. Sau hàng loạt những thang lang vật vờ, chúng tôi mua lại một Nhà trọ - Quán rượu ở thủ đô Vương quốc Yan của chúng tôi, gần Cửa Nam. Công việc không thiếu. Tôi, một bé gái tám chín tuổi, chẳng câu nệ gì mà góp phần mình vào đó ngay: thôi thì thổi lửa, kéo nước, rửa bát, lau phòng, và chẳng mấy chốc thì phục vụ trong quán rượu, sắp đặt bàn ghế và bày bàn...
Khi mười bốn tuổi thì tôi bị người đàn ông được tôi gọi là cha ấy bắt đầu sàm sỡ, rất nhiều lần. Nhơ bẩn, ghê tởm, vấy máu tanh tưởi, nổi loạn, ý định bỏ trốn. Bà chủ, một khi biết chuyện đã ra tay dàn xếp bình ổn câu chuyện khốn kiếp này. Thực ra, chính bà mới là chủ nhân thật sự của quán trọ. Tôi ngạc nhiên, bởi bà tỏ ra ân cần độ lượng với tôi. Nhưng tôi cũng nhận ra rất nhanh rằng bà ta đã nhìn thấy trong tôi một cây “Át chủ bài” cho quán rượu của bà rồi. Khi mới xấp xỉ tuổi mười sáu thì tôi đã trở thành một thiếu nữ gần như hoàn chỉnh, phơi phới, có thể nói là một thân hình kiều diễm và khuôn mặt dễ coi. Một số còn gọi tôi là “Người đẹp”. Thực tế thì ba năm rõ mười, tôi không việc gì phải phủ nhận: tôi mà cứ đều đặn phục vụ tại gian lớn của quán rượu thì số lượng khách hàng cứ tăng lên, khách qua đường cũng như đám khách quen trong thành phố. Trưởng thành trong môi trường này, tôi không quá vô thức để không lường được những nguy hiểm luôn rình rập. Khách hàng hổ lốn, ầm ĩ, sặc sụa, gồm hàng lô những kẻ thô thiển, lưu manh, những kẻ bỡn cợt lỗ mãng luôn phun ra những lời đùa thô tục, một vài kẻ còn dám dùng hành động, coi tôi là “gái bar”. Tôi phải buộc mình giữ khoảng cách đúng mực, không nhất định phải lớn tiếng mà bằng một phẩm cách dứt khoát. May mắn thay, phần đông số khác thì đứng đắn: các quan viên đi công cán cùng gia đình, phú nông đi thưởng ngoạn, người bán hàng rong, công chức nhỏ, tiểu thủ công, bác sĩ hoặc lương y, nhà nho hoặc nghệ sĩ. Một trong số họ, do cảm mến mà đã trở thành người che chở cho tôi: anh Han lực điền, anh ấy là đồ tể, cứ chiều chiều lại đến ngồi im trong một góc quán, vừa như nhu nhược lại vừa chuyên quyền. Chỉ cần anh gầm gừ chất giọng nặng của mình và đảo tròn cặp mắt là khiến cho mọi hành động bất nhã, mọi sự rắp rem cãi vã hay đánh lộn, dừng lại ngay.
Làm sao lại không nói đến Gao Jian-li được chứ, chàng nhạc công mà một hôm đã cặp bến nhà tôi? Râu tóc rậm rì, trang phục lếch thếch, với dáng vẻ ủ rột dữ tợn của mình, anh mang dáng hình của một con lợn rừng bất chợt từ rừng sâu ló ra. Chúng tôi hơi hoảng. Do cảm giác đánh lừa thôi! Sau đó, trong một góc phòng đông cứng người, anh lấy chiếc hộp zhou của mình ra, đặt lên đầu gối và bắt đầu chơi nhạc, khi ấy trước mắt chúng tôi anh tựa như một thầy pháp đang tiến hành một lễ nghi linh thiêng nào đó. Tất cả mọi người có mặt trong phòng đều bất ngờ nín bặt, và ai nấy đều tự hỏi: “Anh ta là ai vậy? Anh ta từ đâu tới thế?” Cả tôi nữa, tim đập liên hồi, hệt như bị mê hoặc. Bằng âm nhạc của mình, khi thì thê lương, đanh thép, lúc lại hiền hòa, bất chợt như xa vắng, anh đưa chúng tôi vào một thế giới đầy xúc động và mê li mà tôi chưa bao giờ hình dung lại có thể tồn tại một nơi như thế. Vẻ mặt anh, còn chăm chú hơn cả chúng tôi, còn mê mẩn hơn cả chúng, là hiện thân của chính sự hùng vĩ, sự cao nhã. Thực ra thì anh là ai? Liệu có phải anh đến từ một thế giới khác để chuyển cho chúng tôi một bức thông điệp chăng? Dẫu bức thông điệp ấy thân thiện đến nhường nào! Về bản chất, những điều mà âm nhạc của anh bày tỏ là tất cả những gì, ngoài những khốn cùng và thiên tai, trần gian tàng trữ được những báu vật tiềm ẩn. Đất sinh, đất dưỡng! Nghe anh chơi bằng cả thể xác và tâm hồn, tôi cứ ngỡ đã tìm lại được thời thơ ấu của mình và cả không gian bao bọc quanh nó thời ấy. Khuôn mặt của cha mẹ tôi, của em trai tôi, tất cả những gì chúng tôi cảm nhận được thì đều đẹp, đều gây xúc động, tất cả những gì mà cả trẻ em lẫn người lớn, chúng ta vẫn âm thầm mang trong mình mà chưa bao giờ có điều kiện để bày tỏ chúng ra.
Hiệu Constant (chuyển ngữ)
(SH289/03-13)
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.