Đám tang

15:01 04/12/2009
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

Tập truyện Nadirs (1982) đầu tay của Herta Muller - Ảnh: inbooks.com.au


T
rên sân ga xe lửa, những người họ hàng chạy dọc theo đoàn tàu đang phụt khói. Vừa chạy họ vừa giơ cao tay vẫy vẫy.

Một chàng trai đứng sau cửa sổ toa tàu. Ô kính kéo lên ngang tầm nách anh. Anh giữ chặt một bó hoa trắng tơi tả trước ngực. Khuôn mặt anh đờ đẫn.

Một phụ nữ trẻ bế một đứa bé nằm im ra khỏi ga. Người phụ nữ bị gù.

Đoàn tàu đang đi ra trận.

Tôi tắt ti vi.

Cha đang nằm trong quan tài đặt ở giữa phòng. Các bức tường dán đầy ảnh che kín cả tường.

Trong một bức Cha đứng cao gấp rưỡi chiếc ghế ông đang nắm tay. Ông mặc quần áo và đôi chân vòng cung của ông cứ khuỳnh ra. Đầu ông hình quả lê, bị hói.

Trong một bức khác Cha là chú rể. Bạn chỉ thấy được nửa ngực ông thôi. Nửa kia bị che khuất bởi bó hoa trắng tơi tả trong tay Mẹ. Đầu hai người kề sát nhau dến mức dái tai chạm vào nhau.

Trong một bức khác nữa, Cha đứng thẳng người trước hàng rào. Chân ông đi giày dẫm lên tuyết. Tuyết trắng lóa khiến ông như đứng giữa khoảng trống không. Một tay ông giơ cao lên đầu làm điệu bộ chào. Trên cổ áo ông thấy có những hình thù kỳ dị.

Trong bức kế bên Cha đang vác cuốc. Phía sau ông là những thân ngô dán chặt lên trời. Cha đội một cái mũ trên đầu. Cái mũ phủ một bóng râm lớn che khuất mặt ông.

Trong bức tiếp đó Cha đang ngồi sau tay lái một chiếc xe tải. Xe chở đầy bò. Hàng tuần Cha phải lái xe chở bò đến lò mổ trong thành phố. Khuôn mặt cha gầy và có những nét thô cứng.

Trong mọi bức ảnh Cha đều bị đóng khung ở tư thế nửa chừng. Trong mọi bức ảnh Cha trông như là không biết mình làm gì. Nhưng Cha luôn biết việc mình làm. Vì vậy các bức ảnh đều sai. Tất cả các bức ảnh đều giả, tất cả các khuôn mặt trong ảnh đều giả, chúng khiến căn phòng trở nên lạnh lẽo. Tôi muốn đứng lên khỏi ghế, nhưng quần áo tôi đã bị đóng băng vào gỗ. Quần áo tôi trong suốt và màu đen. Mỗi khi tôi cử động, nó kêu răng rắc. Tôi vươn tay chạm vào mặt Cha. Nó lạnh hơn các đồ vật trong phòng. Bên ngoài đang là mùa hè. Bọn ruồi bay loạn xạ. Làng trải dài dọc theo một con đường cát to. Con đường nóng bỏng, rám nắng, nhìn vào chói mắt.

Nghĩa trang xây bằng đá. Trên các ngôi mộ có rải đá cuội.

Khi tôi nhìn  xuống đất thì thấy đế giày đã bật ra. Tôi luôn dẫm phải dây giày. Chúng dài và nặng lết quết kéo lê phía sau tôi, đầu dây cuộn lên.

Hai người đàn ông bé nhỏ một cách kỳ lạ đang khiêng quan tài ra khỏi xe tang và hạ nó xuống huyệt bằng hai sợi dây thừng cũ nát. Cỗ quan tài lắc lư. Cánh tay hai người đàn ông và hai sợi dây thừng cứ vươn dài ra. Huyệt đầy nước dù là đang hạn hán.

Cha cô đã giết nhiều người, một trong hai người đàn ông nhỏ bé dáng say rượu nói.

Tôi nói: ông ấy đi lính đánh nhau. Cứ giết được hai lăm người thì được một huân chương. Ông ấy đã mang về nhà mấy tấm huân chương.

Ông ấy đã hiếp một phụ nữ trong ruộng củ cải, người đàn ông nhỏ nói. Cùng với bốn người lính khác. Cha cậu đã thọc một củ cải vào giữa hai chân cô ta. Khi bọn ta bỏ đi cô ta bị chảy máu. Cô ta người Nga. Các tuần sau đó, bọn ta gọi mọi thứ súng ống là củ cải tất.

Khi đó là cuối thu, người đàn ông nhỏ nói. Lá củ cải bị đen và cuộn lại vì sương giá. Nói rồi người đàn ông nhỏ đặt một hòn đá to lên quan tài.

Người đàn ông nhỏ dáng say nói tiếp:

Vào dịp Năm Mới, bọn ta đi xem opera ở trong một thị trấn nhỏ của Đức. Giọng hát của tay ca sĩ nghe the thé như giọng đàn bà Nga la hét. Bọn ta từng người một bỏ về hết. Chỉ cha cậu là ngồi nghe đến cuối. Mấy tuần sau ông ấy gọi tất tật bài hát là củ cải, tất tật đàn bà là củ cải.

Người đàn ông nhỏ uống rượu sơ-nap. Dạ dày ông ta sôi ùng ục. Bụng ta chứa đầy rượu sơ-nap y như huyệt đầy nước ngầm vậy, người đàn ông nhỏ nói.

Nói rồi người đàn ông nhỏ đặt một hòn đá to lên quan tài.

Người đàn ông chủ tang đang đứng cạnh cây thập giá bằng đá hoa trắng. Ông tiến lại chỗ tôi. Hai tay ông đút trong túi áo khoác.

Người đàn ông chủ tang có một bông hồng bằng bàn tay cài ở lỗ khuy áo. Bông hoa trông mượt mà, mềm mại. Khi đến sát bên tôi ông rút một tay ra khỏi túi. Đó là một bàn tay co quắp. Ông cố duỗi thẳng các ngón tay nhưng không được. Mắt ông trợn lên vì đau. Ông rên lên khe khẽ, chỉ đủ cho mình nghe.

Trong chiến tranh, anh không thể đi cùng đồng hương được, ông ta nói. Anh không thể ra lệnh cho họ ở quanh mình được.

Nói rồi người đàn ông chủ tang đặt một hòn đá to lên quan tài.

Bây giờ một người đàn ông béo bước đến đứng cạnh tôi. Đầu ông ta thuôn như một cái ống, không thấy mặt đâu.

Cha cô đã ngủ với vợ ta hàng năm trời, ông ta nói. Lão ấy đã hăm dọa ta khi ta say và cuỗm luôn tiền của ta.

Ông ta ngồi xuống một phiến đá.

Tiếp đó một phụ nữ nhăn nheo, khẳng khiu đi lại chỗ tôi, dậm chân xuống đất, chửi rủa tôi.

Đám người dự tang đứng ở phía bên kia huyệt. Tôi nhìn mình và hoảng sợ vì họ có thể nhìn thấy cặp vú của tôi. Tôi cảm thấy lạnh.

Mọi người đều đổ dồn mắt vào tôi. Những cặp mắt trống rỗng. Từ dưới mi mắt, các cặp đồng tử chĩa ra chòng chọc. Đàn ông khoác súng, đàn bà thì đeo chuỗi hạt.

Người đàn ông chủ tang rút bông hồng ra. Ông ta ngắt từng cánh hoa đỏ như máu cho vào mồm nhai.

Ông ta vẫy tay cho tôi. Tôi biết giờ là lúc mình phải nói. Mọi người đang nhìn tôi.

Tôi không nghĩ ra được lời nào. Mắt tôi trợn ngược lên đầu qua cổ họng. Tôi đưa tay lên miệng và gặm ngón tay. Mặt sấp tay tôi vẫn còn in dấu răng. Răng tôi nóng. Máu chảy từ khóe miệng nhỏ xuống vai tôi.

Một cơn gió giật tung tay áo tôi. Mảnh vải đen bị cuốn tung lên trời dập dờn bay lượn.

Một người đàn ông đang chống gậy dựa vào một phiến đá to. Ông ta giương súng nhằm vào ống tay áo bóp cò. Khi nó sa xuống đất ngay trước mặt tôi nó nhuộm đầy máu. Cả đám tang vỗ tay.

Cánh tay tôi lộ ra. Tôi đứng chết lặng giữa trời.

Người chủ tang ra hiệu. Đám đông thôi vỗ tay.

Chúng ta tự hào về cộng đồng mình. Các thành tích của chúng ta đã cứu chúng ta khỏi suy sụp. Chúng ta không muốn để mình bị xúc phạm. Chúng ta không muốn để mình bị phỉ báng. Nhân danh cộng đồng Đức của chúng ta, cô bị kết tội chết.

Tất cả họ chĩa súng vào tôi. Trong đầu tôi vang lên một tiếng nổ lớn.

Tôi ngã nhào nhưng không chạm đất. Tôi nằm lơ lửng trong không trung giữa những cái đầu của họ. Lặng lẽ tôi đẩy các cánh cửa mở ra.

Mẹ tôi đã lau chùi hết mọi căn phòng.

Bây giờ trong phòng có một chiếc bàn dài trên đó cơ thể được bày ra. Đó là chiếc bàn hàng thịt. Có một chiếc đĩa trắng để không và một cái bình cắm bó hoa trắng tơi tả.

Mẹ mặc một bộ đồ đen trong suốt. Bà cầm một con dao to. Mẹ đứng trước gương và dùng con dao to đó cắt rời bím tóc xám dày nặng của mình. Mẹ dùng hai tay bê bím tóc đến bàn. Bà để một đầu bím tóc lên chiếc đĩa.

Từ nay đến hết đời mẹ sẽ chỉ mặc đồ đen, bà nói.

Bà châm lửa vào đầu bím tóc. Lửa lan từ đầu bím tóc trên đĩa đến đầu kia. Bím tóc cháy như một cái cầu chì. Lửa liếm sạch và nuốt hết.

Ở Nga họ đã cạo tóc mẹ. Đó là hình phạt thấp nhất. Mẹ bị đói đến không đi vững nữa. Đang đêm mẹ bò vào ruộng củ cải. Người gác có súng. Anh ta mà thấy mẹ chắc sẽ bắn mẹ chết. Khu ruộng không phát ra tiếng sột soạt. Khi đó là cuối thu, lá củ cải bị đen và cuộn lại vì sương giá.

Tôi không nhìn thấy Mẹ nữa. Bím tóc đang cháy mạnh. Khói mù mịt khắp phòng.

Họ đã giết con, mẹ tôi nói.

Hai mẹ con không nhìn thấy nhau nữa vì cả căn phòng dày đặc khói.

Tôi nghe tiếng bước chân mẹ đi lại gần. Tôi giang tay ra sờ người mẹ.

Đột nhiên bà móc bàn tay xinh xắn vào tóc tôi. Bà móc đầu tôi. Tôi thét lên.

Tôi đột ngột mở mắt. Căn phòng quay tròn. Tôi đang nằm trên đống hoa trắng tơi tả và bị khóa ở bên trong.

Sau đó tôi cảm thấy tòa nhà chung cư này đang nghiêng xuống và đổ vào lòng đất.

Đồng hồ báo thức kêu. Bây giờ là năm rưỡi sáng thứ bảy.

NGÂN XUYÊN dịch từ tiếng Anh

(249/11-09)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Salman Rushdie (1947), nhà văn và người viết tiểu luận, gốc Ấn, hiện sống tại Mỹ, là tác giả của nhiều tiểu thuyết gây tiếng vang, như Những đứa con của nửa đêm, được trao giải Booker, năm 1981, và cả những tiểu thuyết gây tranh cãi như Những vần thơ của Satan, 1988. Văn phong Rushdie thâm trầm, khoáng lộng, hài hước và tươi mới.

  • FRANK O’CONNOR  

    Khi tôi tỉnh giấc, tôi nghe có tiếng mẹ ho ở nhà bếp. Mẹ bị ho đã nhiều ngày nhưng tôi không để ý. Chúng tôi sống ở Old Youghal Road, nơi mà vào lúc đó, có một con đường nhiều đồi dốc dẫn tới East Cork.


  • E. RUXACỐP (Nga)

  • ABDULRAZAK GURNAH    

    Tôi nghĩ anh ta đã nhìn thấy tôi đang tiến lại gần, nhưng vì lý do riêng nào đấy nên anh ta vẫn không có dấu hiệu gì.

  • Maurice Druon, sinh năm 1918, theo học Đại học Luật Paris. Trong chiến tranh thế giới ln thứ hai, ông tham gia lực lượng kháng chiến Pháp chng phát xít Đức, là thông tin viên Đài Phát thanh Kháng Chiến. Giải Goncourt 1948 với tác phm "Đại Gia đình" (Les Grandes Familles). Các tác phm đậm chất trữ tình của nhà văn: "Kết thúc đời người" (La Fin des Hommes), "Hẹn gặp tại Địa ngục" (Rendez-vous aux enfers) phản ánh một thiên hướng theo trường phái Balzac.
    Ông đồng thời là tác giả một số tiểu thuyết lịch sử.

  • JENNIFER WALKUP   

    Tôi sẽ không nói với ai về việc chẩn đoán.
    Không hé răng với mẹ hay em gái tôi. Chắc chắn không phải Jake và có lẽ với Steve cũng không hề.

  • GRAHAM GREEN

    Cái chết đến kề như một nỗi nghiệt ngã day dứt mà ta hổ thẹn không dám thổ lộ với bạn bè hoặc đồng nghiệp.

  • ELISABETH SILANCE BALLARD

    Một truyện ngắn cảm động về tình thầy trò. Truyện khiến người đọc có thể nghĩ chuyện xảy ra hôm nay, không phải cách đây hơn bốn mươi năm.

  • Tác giả tên đầy đủ là Heinrich Theodor Böll (1917 - 1985). Ông được coi là một trong những nhà văn lớn nhất của Đức thời hậu chiến. Năm 1972 ông được nhận giải Nobel Văn học. Tác phẩm và quan điểm chính trị của Böll thể hiện khát vọng xây dựng một xã hội mang tính nhân văn. Các tiểu thuyết tiêu biểu của ông: “Thiên thần im lặng”, “Và tôi đã không nói một lời duy nhất”, “Nhà không có người che chở”, “Qua con mắt của chú hề”, “Bức chân dung tập thể với một quý bà”…

  • KATE CHOPIN

    Catherine O’ Flaherty sinh năm 1850 tại Saint Louis, Missouri, bố gốc người Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn hóa, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh.

  • Nhà văn, nhà thơ, triết gia, họa sỹ, dịch giả Ấn Độ Rabindranath Tagore sinh năm 1861 tại Calcutta, Ấn Độ và mất năm 1941. Ông để lại một di sản văn học - nghệ thuật đồ sộ với hàng ngàn tác phẩm đủ các thể loại. Tagore còn là nhà yêu nước, đòi giải phóng Ấn Độ khỏi sự cai trị của Anh. Ông được trao giải Nobel văn học năm 1913.

  • O’Neil De Noux sinh ngày 29/11/1950 tại New Orleans, bang Louisiana, Hoa Kỳ. Ông là một nhà văn Hoa Kỳ có sức sáng tác mãnh liệt với nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn, đã có 42 đầu sách được xuất bản. Phần lớn sáng tác của ông là truyện trinh thám hình sự, tuy nhiên ông cũng viết nhiều thể loại khác như tiểu thuyết lịch sử, truyện dành cho trẻ em, truyện khoa học viễn tưởng, kinh dị, tình cảm, v.v.

  • JASON HELMANDOLLAR

    Jason Helmandollar là một nhà văn người Mỹ, tác giả của nhiều truyện ngắn nổi tiếng được đăng trên các báo, tạp chí đang thịnh hành lúc bấy giờ như Encounters Magazine, Bartleby Snopes, Title Goes Here, Sideshow Fables. “The Backward Fall” là một trong những truyện ngắn hay và hấp dẫn của ông.

  • TIMUR JONATHAN KARACA

    Timur Jonathan Karaca được sinh ra ở San Francisco. Ông là bác sĩ y khoa khoa gây mê tại UCSF. Ông sống ở Oakland, nơi ông hành nghề. Karaca theo học sáng tác tại Studio Hi Nhà văn San Francisco.

  • Naguib Mahfouz (1911 - 2006) sinh ra trong một gia đình nghèo tại Cairo. Ông học triết học tại Đại học Cairo và làm công chức cho tới khi về hưu năm 1971. Mahfouz là nhà văn lớn của Arab và của thế giới. Ông có 35 tiểu thuyết, 14 tập truyện ngắn và nhiều tác phẩm kịch. Tác phẩm của ông rất phổ biến ở phương Tây. Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.
    Truyện ngắn dưới đây diễn tả bi kịch của cá nhân khi bị phụ thuộc vào kẻ khác. Tuy nhiên, như rất nhiều tác phẩm khác của văn học Arab, nó còn mang tính ẩn dụ và nghĩa hàm ẩn.

  • ALBERT LAMORISSE (Pháp)

    Albert Lamorisse là một nghệ sĩ đa tài của nước Pháp. Ông vừa viết văn, làm thơ, vừa biên kịch và đạo diễn điện ảnh. Truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) này đã được chính Albert Lamorisse dựng thành phim, rất nhiều người hâm mộ.