Nhà thơ, nhà báo Vương Tâm vừa ra mắt tuyển “Thơ chọn Vương Tâm” (NXB Hội Nhà văn), với 180 bài thơ và một số bức tranh minh họa của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.
Đây là tuyển tập đầy đặn, đánh dấu 40 năm sáng tạo kể từ tập thơ đầu tiên “Đất rộng thời xanh”, xuất bản năm 1980 của ông. Tuyển thơ chia thành ba phần: “Nỗi đời còn xanh”, “Độc ẩm”, “Tiếng kèn cọng rơm”.
Ở phần “Nỗi đời còn xanh”, thơ ông tập trung vào thế sự, số phận con người, những trải nghiệm và suy tưởng về cuộc sống. Trong các bài “Một mình”, “Tự họa”, “Niệm khúc tháng sáu”, “Nỗi đời còn xanh” giống như một sự tổng kết, liên tưởng về không gian, thời gian hữu hạn của con người. Cái sự trôi đi của thời gian thật nghiệt ngã: “Có những lúc nhắm mắt lắng nghe/Thời gian trôi sần sùi giá cả/Với ta như cỏ cây hoa lá/Hồn nhiên và thanh thản mỉm cười”. Có lúc, nhà thơ như đứng trước gương soi mà không nhận ra mình, đành thốt lên: “Ông già ấy, chính là ta/Mới đây mười bảy nay đà bảy mươi”. Song với quả tim yêu đời, ông lại tự an ủi: “Tuổi già như có, như không/Trái tim vẫn trẻ tận cùng niềm vui”.
Phần “Độc ẩm”, chính là những áng thơ tình đầy da diết, nồng nhiệt và cũng có lúc đắng cay nghìn trùng. Đọc phần này, cảm tưởng Vương Tâm có khá nhiều mối tình thực. Đó có thể chỉ là sự lãng đãng với một nữ sinh trung học, như cơn mưa chiều hè bất chợt rồi vội tạnh mau. Đó cũng có thể là mối tình với một người cũng làm thơ, đằng đẵng như những cơn mưa xuân dài không ngớt, để những chồi xanh mơn mởn và hoa xuân khoe sắc. Trong thơ tình, Vương Tâm có nhiều lý giải về tình yêu đôi lứa, có những lý giải đi đến tận cùng và có thể cắt nghĩa. Cũng có những điều chẳng thể nào nói rõ ràng, thí dụ như bài “Cõi mơ”, ông viết: “Rằng em là một giấc mơ/Ngàn lau trắng muốt tràn bờ cỏ xanh/Anh bay trong nắng vô tình/Tìm đôi mắt biếc lung linh môi cười”…
Phần cuối, “Tiếng kèn cọng rơm” là thơ dành cho thiếu nhi, với cách dẫn dụ hồn nhiên, dí dỏm, cuốn hút. Đọc tuyển thơ, như thấy Vương Tâm đã chắt cả những đau khổ và hạnh phúc, những nụ cười và nước mắt, những thủy chung, bội phản, những thùy mị nết na và chua ngoa đanh đá… thành thơ. Theo dõi quá trình sáng tạo của Vương Tâm, bạn đọc nhận ra quá hai phần ba thơ ông là thơ tình. Thơ ông dù có bài thể hiện sự thất tình, song không quá bi lụy, sướt mướt. Những bài thơ ấy, có cái buồn như gió, nỗi nhớ như bão, đủ xoáy vào trái tim người đọc những run rẩy của mùa, xao xác của lá và ngọt ngào của nụ hôn.
Đọc “Tuyển thơ Vương Tâm” thấy tác giả là người chịu đi, chịu nghĩ, sáng tạo. Lúc nào cũng có cảm giác ông đang đắm say với cõi đời, cõi người và luôn nhiệt tình với cuộc sống. Trong quá trình sáng tạo, ông không ngừng tự học, trải nghiệm, quan sát và trăn trở. Nhờ thế thơ ông giàu sức sống.
Theo Nguyễn Văn Học - Thời Nay
. Hai năm sau kể từ khi Julia Kristeva đưa ra khái niệm liên văn bản (intertextuality), Roland Barthes đã đi xa hơn nhiều qua một tuyên bố gây sốc: Cái chết của tác giả (The Death of the Author, 1968). Những quan niệm mới mẻ của các nhà khoa học một thời từng là trụ cột của chủ nghĩa cấu trúc đã chính thức khép lại vai trò của isme này và mở ra giai đoạn hậu cấu trúc. Trong quan niệm mang tính gây hấn của họ, người đọc, từ chỗ là kẻ bên lề, đã chính thức bước vào vị thế trung tâm với tư cách là kẻ có quyền năng tối thượng trong việc thiết lập mối quan hệ và ý nghĩa giữa văn bản và liên văn bản, giữa văn bản và các thiết chế văn hóa đã tạo ra nó(1).
Tiểu thuyết về giải phóng miền Nam Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.1975 của nhà báo kỳ cựu Trần Mai Hạnh đã vượt qua tiểu thuyết về chiến tranh biên giới phía Bắc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, tác giả xuất sắc của văn học đương đại.
“Tay chơi” Nguyễn Quang Sáng rời xa cõi tạm, “trưởng lão” Tô Hoài về với “Cát bụi chân ai,” nhà văn của đất và người phương Nam - Anh Đức về với đất Mẹ, tác giả của “Biển và chim bói cá” - nhà văn Bùi Ngọc Tấn kết thúc hành trình sống và viết…
"Những đỉnh núi du ca" là công trình nghiên cứu mới nhất về tộc người H'mông của nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Mạnh Tiến (ảnh bên), người đã cố công lang thang suốt ba năm trên khắp miền núi phía Bắc mà trọng tâm là cao nguyên đá Đồng Văn để tìm kiếm cho mình một lối tiếp cận khả dĩ nhất để giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người vừa đặc biệt, vừa hấp dẫn nhưng cũng không ít bí ẩn.
"Có một phố vừa đi qua phố" - tập di cảo của cố tác giả Đinh Vũ Hoàng Nguyên - là một trong bốn tác phẩm văn học đoạt giải "Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2014".
Nhà văn quân đội có tiếng Đình Kính (Hải Phòng) viết ở nhiều lĩnh vực: Tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, kịch bản phim. Mảng chủ đề lớn mà ông đeo đuổi là biển và những người lính biển, với các tác phẩm “Sóng cửa sông” (1976), “Đảo mùa gió” (1978), “Lính thủy” (1978), “Người của biển” (1985) - Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, “Sóng chìm” (2002), “Huyền thoại tàu không số” (2012) - 2 tác phẩm này đều đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn VN. Phóng viên Báo Lao Động đã phỏng vấn ông…
Trong tiểu thuyết Xác phàm, nhà văn Nguyễn Đình Tú dùng hình ảnh “mùi buồn” để gợi lại ẩn ức về một cuộc chiến tranh.
Bất kỳ người cầm bút nào cũng đều mơ ước rằng tác phẩm của mình sẽ trở thành sách gối đầu giường của hàng triệu người. Sao chúng tôi - những nhà văn, nhà thơ Việt Nam lại không mong muốn một ngày tác phẩm của mình hiện diện trên các ngôn ngữ của dân tộc khác chứ?
NGUYỄN NHẬT ÁNH
Tạp văn
Nhà văn Tô Hoài - tác giả của cuốn sách "Dế mèn phiêu lưu ký" khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê - đã từ trần vào trưa 6.7.2014 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi.
Nobel Văn học là đỉnh cao nhưng không phải đỉnh cao nào cũng làm hoan hỉ tất cả mọi người. Việc lựa chọn của viện Hàn lâm Thuỵ Điển những năm gần đây chắc chắn sẽ làm chạnh lòng những ai đã trót yêu thích thế giới văn chương của Kafka, Jorge Louis Borges, Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino…
Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lần nào ra Hà Nội, dù dài ngày hay chỉ là thoáng chốc, nhà văn Trần Thùy Mai cũng tới ngồi uống cà phê ở nhà hàng Thủy Tạ nhìn ngắm hồ Gươm và hẹn bạn bè tới gặp gỡ chuyện trò. Hỏi vì sao chị chỉ chọn mỗi chỗ này, Trần Thùy Mai bảo: “Là vì ở đây là “Hà Nội nhất”, lại có thiên nhiên bao quanh, giống như bờ sông Hương ở Huế vậy…”.