Đám mây lửa

10:25 13/12/2021

Maurice Druon, sinh năm 1918, theo học Đại học Luật Paris. Trong chiến tranh thế giới ln thứ hai, ông tham gia lực lượng kháng chiến Pháp chng phát xít Đức, là thông tin viên Đài Phát thanh Kháng Chiến. Giải Goncourt 1948 với tác phm "Đại Gia đình" (Les Grandes Familles). Các tác phm đậm chất trữ tình của nhà văn: "Kết thúc đời người" (La Fin des Hommes), "Hẹn gặp tại Địa ngục" (Rendez-vous aux enfers) phản ánh một thiên hướng theo trường phái Balzac.
Ông đồng thời là tác giả một số tiểu thuyết lịch sử.

Nhà văn Pháp Maurice Druon - Ảnh: culture.gouv.fr

MAURICE DRUON

Người dân đảo Martinique giờ đây thường không quen gọi "ngày 8/5", hoặc "vào năm 1902", giờ với họ, từ "thứ Năm" trở nên quá đổi quen thuộc, "thứ Năm", như thể không còn một ngày nào khác được quyền mang tên ấy.

Tôi đến đảo Saint-Pierre đúng ba mươi sáu năm sau ngày thứ Năm, năm xảy ra tấn thảm kịch với người dân đảo. Kinh đô trước đây của Antilles, thị trấn nhỏ giờ mang đầy vết tích tang tóc, tàn lụi. Trước đây, Saint-Pierre có khoảng vài chục ngàn dân, người dân dựng từng dãy nhà buôn, nhà thờ, rạp hát, công viên... từng lớp lớp nhà xếp thành từng dãy tựa vào triền núi. Thành phố vốn sầm uất trước đây, sau ngày thứ Năm ấy, giờ một nửa đã biến trong dòng nham thạch của ngày ấy, phần còn lại, giờ đây cỏ hoang đã vùi lấp gần hết. Thật khó nhọc, tôi mới nhác thấy vài ba căn nhà được dựng lại. Người dân dựng lại nhà từ những viên đá còn mang đầy vết sém của lửa. Ngôi nhà mới mặc nhiên còn mang đầy dấu vết của sự tàn lụi. Dường như quanh quẩn, lẩn lấp trong bầu trời và không khí đảo là một màu xám đục, cát biển, đập gỗ ngăn nước giờ đều mang màu xám. Bầu trời đầy mây cũng phảng phất một mảng sắc của nham thạch. Thị trấn giờ không còn một bóng cây, một vòi nước bằng đồng, di chỉ của một thời huy hoàng quá khứ, giờ nằm chơ vơ với hai bể nước giờ đã cạn khô. Mấy đứa trẻ trần truồng, da đen nhẻm, chạy chơi quanh quẩn. Những người đàn bà lai, hẳn đã rất già, bâng quơ tranh cãi trước một giỏ cá biển.

Người đàn bà da trắng là người tôi tiếp chuyện trong chuyến đi thăm đảo. Khuôn mặt dịu dàng, đôi mắt long lanh nước, tất cả toát lên một biểu trưng cho lớp người Âu còn sót lại ở đây. Bà đội một chiếc mũ trắng, mái tóc màu bạc thả từng sợi, một dây chuyền vàng viền quanh cổ. Người tựa vào chiếc gậy mây.

Cung cách cùng lối nói chuyện của bà như sẵn sàng đáp lại ánh mắt hiếu kỳ của đám khách lạ, cái thú được chuyện trò kể lể.

"Hôm ấy là thứ Năm... Gia đình tôi rời đảo Saint-Pierre. Hôm trước, ngọn núi đã từng có triệu chứng phun lửa, và cả thành phố hôm sau đều sống trong tâm trạng lo âu. Mẹ tôi cố nài cha tôi lên đồn điền, thường phải đến cuối mùa ông mới đến. Việc này khiến tôi thất vọng, vì hôm ấy đúng vào dịp sinh nhật thứ hai mươi của tôi, thêm nữa, tôi đã đính hôn. Buổi khiêu vũ đành phải dời lại.

Để tôi nguôi ngoai phần nào, Simon, vị hôn phu của tôi, sẽ cùng đi với ông đến đồn điền.

Ở đây, có một người anh họ tôi làm việc, tên Pierre. Một chàng trai, theo tôi, là cục tính và đa nghi. Anh ấy trước đây có ngỏ lời, nhưng bị tôi từ chối. Tôi đã thuộc về Simon và, hẳn ông đã biết, ở tuổi hai mươi, người ta thường không phải lo lắng gì khi làm khổ người khác, thậm chí xem đấy là điều vui. Với tôi, Simon là tất cả...

Sau bữa tối, Claire, chị tôi, ra đánh đàn dương cầm, Pierre đi loanh quanh trong nhà, nét mặt luôn rầu rĩ. Tôi nói với Pierre, giọng chọc ghẹo:

- Pierre, tại sao anh không cưới chị Claire? Chị ấy chỉ mong được điều ấy thôi.

Rồi tôi cùng Simon đi dạo quanh trong vườn. Thời đó, chúng tôi có một khu vườn rất đẹp, một lối đi lớn quanh vườn và hai bên trồng đầy cây cọ. Pierre thấy rõ chúng tôi ôm nhau...

Người đàn bà lặng im một thoáng, người tựa vào chiếc gậy mây. "Sáng hôm sau, bà nói tiếp, tôi dậy thật sớm kịp lúc chào Simon. Pierre đánh xe ngựa cùng đi. Tôi thấy xe khuất dần trong vườn. Suýt tí nữa tôi đã kêu lên: "Simon, hãy quay lại, đừng đi!". Không khí hôm ấy ngột ngạt không như ngày thường. Mấy con chó chạy quẩn quanh, ánh mắt đầy vẻ thảng thốt. Từng đàn chim lũ lượt bay trốn núi.

Cả nhà tôi xuống làng để nghe cầu kinh Misa. Đến nơi, chúng tôi thấy từng nhiều đám đông tụ lại và hét lớn:

- Saint-Pierre bị cháy. Cơn mưa lửa. Biển động.

"Cha tôi muốn xuống đấy, nhưng mẹ tôi đã ngất đi do quá sợ hãi. Cả nhà xúm lại quanh bà.

"Đến giữa trưa, Pierre quay lại. Xe ngựa không có, quần áo hắn rách bươm. Da mặt đỏ ong, tay đầy vết xước. Hắn bước đi loạng choạng. Tôi hét to:

- Pierre, Simon đâu?

Chưa vội trả lời, chỉ ra dấu về hướng thung lũng. Pierre mới kể:

"Ngay lúc khởi hành, con ngựa đã ra dấu uể oải. Pierre phải quất roi nó mới chịu chạy. Xe đến sát thành phố, không khí đã đầy mùi lưu huỳnh ngột ngạt. Từng đám mây lửa cháy bùng lên như vỏ bào. Chiếc xe chạy trước cháy bùng lên thành bó đuốc lớn. Một đám mây lửa thiêu cháy mọi vật. Con ngựa phát rồ, xe bị lật úp. Pierre bị hất xuống đường, hắn thấy rõ đám mây lửa đi qua, trong khi Simon đáng thương áo quần bị vướng vào xe, bị kẹt lại và cuối cùng biến mất trong lò lửa ấy. Mọi việc chỉ diễn ra trong chừng ba mươi giây. Sáng hôm sau, người ta nhặt được những gì còn lại của anh ấy, rơi vung vãi hai bên đường.

Người đàn bà bỗng nhiên nói nhanh hơn, như muốn sớm kết thúc câu chuyện.

"Sau đấy, tôi ngã bệnh. Nhưng ở tuổi hai mươi, mấy ai lại chết vì buồn phiền. Gia đình tôi sa sút. Tôi căm thù Pierre, người anh họ. "Tại sao không phải là hắn? Tại sao hắn không chết?". Dẫu sao, hai năm sau, tôi cưới Pierre.

"Cuộc sống của tôi từ đấy là cuộc sống của bao người đàn bà da trắng ở đây: nhà cửa, con cái. Chúng tôi có chín đứa con. Ông biết đấy, có nhiều chuyện người ta không muốn kể cho những người họ cùng sống, ở đấy, mọi người đều biết nhau quá rõ. Dù sao thì, lắm khi, họ lại có nhu cầu được nói, được kể, được chuyện trò... Chồng tôi đã chết, cách đây vài năm. Trong lễ rửa tội, chồng tôi đã nói thật hết mọi điều. Và vào ngày thứ Năm ấy, hắn đã nói dối. Sự ghen ghét đến độ hóa cuồng đã khiến hắn chỉ nghĩ đến việc giết Simon. Chính hắn đã quất roi vào ngựa, đã một mình nhảy ra khỏi xe và để mặc Simon trong xe lao vào đám mây lửa.

"Những người sắp chết, chắc ông không biết, khi tạ lỗi thường có một vẻ khiếp nhược nào đấy, còn mình lúc ấy thì chẳng thể khước từ...

Bà ta lặng im. Khuôn mặt quay về hướng núi, những nếp nhăn trên mặt càng dày thêm.

Hoàng hôn màu xám đục hối hả đến với đảo Saint-Pierre. Bầu trời xám, mặt biển cùng xám nốt.

Không nói câu tạm biệt, cũng không có thời gian để tôi kịp hỏi tên, bà bỏ đi. Những bước chân rắn rỏi, chiếc gậy mây nện từng tiếng xuống đường.

Tôi đến một quán rượu. Ông chủ quán đang ngồi trước quầy, hai chân buông thõng. Mái tóc xoăn, điểm màu bạc, ánh mắt ông thật buồn, thường vẫn thấy ở những người lai, khi về già.

- Tôi muốn biết tên người đàn bà vừa mới nói chuyện, thưa ông!

- À... Cô Harbelot, ông già đáp.

- Cô?... Tôi thốt lên, rất ngạc nhiên.

- Vâng, cô Harbelot des Planchais.

- Nhưng còn tên của người chồng?

Ông già lắc đầu:

- Ồ không, có cưới lần nào đâu.

- Bà nói với tôi bà có chín đứa con.

- Không, không. Không có đứa nào hết. Cô ấy chỉ nói chuyện như thế, thế thôi. Ông anh họ chăm sóc cô, nhưng không thể ngăn cô ra đường, luôn luôn thế. Cô ấy bị điên. Điều này xảy ra với cô Herbelot, dường như vào thứ Năm.

Phạm Anh Tú dịch
(TCSH50/07&8-1992)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".

  • ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

  • ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.