NGUYỄN THANH ĐẠM
Ba ngày nữa kết thúc chương trình hợp tác một năm dạy tiếng Pháp tại trường Đại học Đà Lạt, Lavande bần thần trước thời gian vụt trôi nhanh quá.
Minh họa: Nhím
Sắp rời xứ sở dịu dàng, thân thiện, mộng mơ rồi ư? Từng hai năm học tiếng Việt ở Hà Nội, một thành phố đáng yêu, song miền cao nguyên lại có điều gì níu kéo, thật khó cắt nghĩa nếu phải chia xa. Cảm giác hụt hẫng len lén xâm chiếm tâm tưởng khiến Lavande bồn chồn. Sắp xếp hành lý, thấy góc va li chiếc hộp gỗ cỡ bao thuốc lá màu cánh kiến, chạm trổ hoa văn dát bạc, buộc nơ hồng, cô nhíu trán, rầu rĩ: Thế là, không hoàn thành nhiệm vụ bà nội giao!... Ngày cháu gái sang Đà Lạt, bà run run nắm tay Lavande khá lâu: - Cháu tìm ông Lương và trao vật này! Ông cũng ngoài bảy mươi. Sainte Maria, mère de Dieu (Lạy Chúa tôi)! Cầu mong ông còn khỏe!
Ở Đà Lạt, Lavande đi tìm và hay ông Lương mất chừng bảy, tám năm do bạo bệnh, con cháu chuyển đi nơi khác từ lâu. Do vậy, món quà không thể trao được. Những lần thăm hỏi, mọi người đều biểu hiện thái độ thiện cảm bởi ông là kỹ sư canh nông tâm huyết, người đầu tiên thiết kế Vườn hoa Đà Lạt. Lavande đôi lần lang thang suốt buổi khắp Vườn hoa và nhận thấy phong cách rất châu Âu! Có lẽ như nhiều người nơi đây cô tiếp xúc, ông Lương hẳn lịch lãm, nhân từ. Ừ phải vậy, bà nội mỗi lần kể đều dành cho ông sự trân quý.
Chuyện của bà: Năm 1959, tốt nghiệp tú tài loại giỏi, Lương nhận học bổng của Trường Canh nông Versailles. Mấy chục năm qua, Đà Lạt hình thành các ấp Vạn Thành, Hà Đông, Nghệ Tĩnh, Thái Phiên… nổi tiếng nghề làm vườn, nhất là các loài rau, hoa ôn đới di thực sang. Quần quật với rò sú, luống khoai tây nhưng nhà vườn lại dáng dấp rất Tây. Sáng nắng cũng như mưa, ba anh quấn khăn len, khoác măng tô hay áo vét, đội mũ phớt, đi dày da không khác chi công chức bậc trung lên phố nhâm nhi cà phê, tán chuyện gần xa với bạn bè. Tầm chín giờ mới lững thững cầm tờ báo rời quán, về nhà vội mặc bộ đồ lao động, mang cuốc ra vườn. Hay tin Lương du học nghề nông, ba phấn khởi: - Cố gắng học hỏi kinh nghiệm bên ấy! Nghề nông ở Pháp tiên tiến lắm!
Rời Sài Gòn, trên chuyến tàu thủy vượt đại dương sang Pháp, lắc lư theo nhịp sóng Lương chợt nghĩ đến bác sĩ Alecxandre Yersin, tấm gương sáng trong nghiên cứu khoa học. Lương nhủ: Học về, đến Suối Dầu thắp nén tâm nhang dâng lên bác sĩ…
Sang Pháp, không như một số đồng môn người Việt tranh thủ thăm thú các danh thắng, nhất là “mục sở thị” “Paris, Thủ đô Ánh sáng”, anh sinh viên mảnh mai có đôi mắt đen ngời sáng thông minh, nghị lực dành hầu hết thời gian cho học tập, cắm cúi trong thư viện, miệt mài ở vườn thực nghiệm. Gần hết năm cuối, một lần lên thư viện, Lương say sưa đọc, ghi chép tài liệu về các trường phái Vườn châu Âu, nhất là vườn Pháp. Đang mải mê, cô thủ thư duyên dáng với mái tóc vàng óng ả buông ngang lưng, nhẹ nhàng tiến lại: - Anh à, cảm phiền đã đến giờ nghỉ trưa! Lương dụi mắt ngó quanh, thư phòng chỉ còn hai người. Ngước nhìn cặp mắt xanh lơ màu nước biển, anh bối rối: - Xin lỗi!
Nhận tập tài liệu, cô gái cất giọng du dương: - Anh nghiên cứu đề tài này sao?
- Vâng! - Trả lời rồi Lương phân trần quê mình có địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng tương tự bên Pháp, gần đây xây cất nhiều biệt thự mang phong cách châu Âu cuối thế kỷ XIX, đầu XX do đó mệnh danh “Paris thu nhỏ”, “Tiểu Paris” của Việt Nam, gặp tài liệu, anh hứng thú như bắt được vàng.
- Ôi, Đà Lạt? Ba tôi sang xây dựng trường Grand Lycée vào năm 1934, 1935! Một vùng cao nguyên ấn tượng, khó quên, ông nhắc hoài!
Ít ngày sau lần trò chuyện ấy, cô thủ thư Élen mời Lương thăm nhà. Ba cô tấm tắc: Xưa toàn quyền Decoux dự định xây dựng cao nguyên thành “Thủ phủ Đông Dương” là đúng. Ít nơi trên thế giới hội tụ những sự kỳ diệu, hữu tình như vậy! Đà Lạt phiên âm từ chữ Đà Làc (đồng bào dân tộc bản địa phát âm Đạ Lạch). Đạ là nước, suối, sông và Lạch là tên bộ tộc dưới chân núi Lang Bian. Có cách giải thích danh từ Đà Lạt chiết tự bởi các chữ cái đầu câu phương ngôn La tinh: Dat Alliis Laetitium Alliis Tem perriem (Cho người này niềm vui, cho người kia sự mát lành). Hiểu nghĩa nào cũng thú vị! Ông kỹ sư xây dựng say sưa nhắc tới những lần say ngắc ngư rượu cần và đêm đêm hào hứng nối vòng người K’ho dưới chân núi Lang Bian nổi nhịp cồng chiêng, nhảy múa hoang dại bên ngọn lửa hừng hực như thuở hồng hoang. Và đôi chuyến dạo chơi Thung lũng Vallée Damour (Thung lũng Tình yêu), ngắm thác Prenn hay đi săn thú rừng ở tận Phi Liêng, Liêng Srônh… Ông tự hào bởi được góp phần xây dựng trường Grand Lycée (sau này cùng với trường Petite Lycée xây xong năm 1927 được mang tên Lycée Yersin để tôn vinh nhà khoa học). Ba Élen trầm trồ: Ngôi trường xây bằng gạch đỏ thiết kế quả độc đáo, tòa kiến trúc mềm mại lượn đường cong tựa trang sách mở, tháp chuông cách điệu cây bút vút lên nền trời xanh thẳm! Quý mến Lương hiền lành, chăm chỉ học hành, lâu lâu ông lại nhắc Élen mời Lương đến chơi.
Cuối năm, còn hơn tháng nữa Lương nhận bằng tốt nghiệp. Một chiều, Élen rạng rỡ như tia nắng mùa xuân tươi trẻ ùa tới phòng anh:
- Lương à, tối nay anh với em dự lễ hội hoa nhé!
- Lễ hội hoa? - Lương lúng túng: - Mình ư? Lễ hội hoa gì vậy?
- Hoa Jacaranda Acutifolia! Mọt sách… chẳng biết gì cả! - giọng Élen thân mật pha chút nũng nịu: - Nhớ nghe, 7 giờ tối sẽ đón!
Gật đầu, nở nụ cười thay lời cảm ơn, Lương sực nhớ bạn bè có lần loáng thoáng khen lễ hội tôn vinh hoa. Jacarada Acutifolia nguồn gốc Nam Mỹ du nhập sang châu Âu. Cây thân cao, hoa màu xanh tím dịu dàng, thơ mộng, sang trọng, huyền bí được trồng ở công viên, đường phố. Tại Versailles mỗi độ hoa trổ bông, dân chúng náo nức, tưng bừng những đêm hội hóa trang, nhảy múa, ca hát! Nghĩ về cuộc đi chơi tối nay, mấy tiếng nóng lòng chờ đến giờ hẹn nhịp tim Lương đập gấp gáp. “Sao Élen mời mình?”, “Dịp lễ hội này, người ta thường đi với người yêu?”. Băn khoăn rồi anh thầm vui nhận ra gần đây Élen luôn nhìn mình bằng ánh mắt đằm thắm. Ngày nào hai người không gặp thì cũng mất hàng chục phút trò chuyện qua điện thoại. Élen còn lục lọi, tra cứu sưu tầm tài liệu, sách báo khoa học quý liên quan đến kiến trúc vườn Pháp và mấy chuyên ngành nông học Lương quan tâm để anh mang về nước tiếp tục nghiên cứu.
Đêm ấy, hòa dòng sông người náo nhiệt, tay ấm áp trong tay xuôi ngược đường phố tràn ánh sáng muôn màu, âm thanh náo nhiệt, Lương ngây ngất bởi tiếng cười vui tươi, giọng nói lảnh lót của Élen. Mắt cô chan chứa niềm vui ngước nhìn và xuýt xoa những chùm hoa tím biếc phủ kín nền trời lung linh.
- Anh thấy màu hoa tựa sắc Forget me not không? Một màu tím huyền diệu, thủy chung! - Ghé sát Lương, Élen thầm thì: - Ở châu Âu, khi yêu nhau, nam thanh nữ tú tặng nhau hoa này, còn gọi Lưu ly, Bâng khuâng, Thủy chung, Đôm đốm tím… thay lời nhắn gửi “Xin đừng quên tôi”!
Lương như soi vào đôi mắt Élen thăm thẳm mơ mộng, chợt buông lời:- Sắp xa Versailles. Không biết mai mốt có ai quên Lương không?
- Ôi, thế mà em không nghĩ tới! - Cánh tay mềm mại xiết nhẹ ngang lưng Lương, Élen khẽ thốt: - Chẳng bao giờ, Lương ạ!
*
- Ông Lương là bạn thân thiết, quý mến vậy đấy cháu ạ! - Trước ngày Lavande đến Đà Lạt, bà nuối tiếc: - Hồi ông về nước chỉ mới ngoài hai mươi và bà thì mười chín tuổi! Tình yêu lãng mạn thời trẻ bay bổng với bao mộng ước và tương lai rạng rỡ màu hồng. Ông hứa sẽ phấn đấu trở lại Pháp học tiếp. Bà chờ đợi và giờ vẫn khao khát nhận tin ông.
Lavande đang bần thần, chợt điện thoại trên bàn rung. Cô cầm lên, nét mặt rạng rỡ: - Ôi, chào Thanh! Cảm ơn, đã giữ hẹn! Mình gặp nhau ở Thủy Tạ nhé! Vâng, hai mươi phút nữa!
Cô phấn chấn bởi Thanh có lời mời gặp gỡ trước lúc chia tay, và cũng ngày mai, anh trở lại Sài Gòn. Ở Đà Lạt, Thanh - nhà khoa học biệt phái lên nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Hạt nhân, thuộc nhóm mấy bạn Lavande thường tâm giao. Vài tháng trước nhân trường đại học tổ chức hội thảo về văn chương Pháp, họ tình cờ trò chuyện và anh chàng tiến sĩ quảng giao, bặt thiệp… ngay từ ánh nhìn ban đầu đã tạo cho Lavande cảm giác dễ mến, tin cậy. Cô quáng quàng nhặt vài thứ cần dùng và vơ luôn chiếc hộp gỗ bỏ vào túi xắc.
Tăc xi chở Thanh trờ tới lối vào nhà hàng Thủy Tạ bên hồ Xuân Hương đã thấy Lavande đang tươi cười cùng nhóm du khách bên cây Phượng tím trĩu hoa. Mọi người yêu cầu cô đứng chung để chụp ảnh lưu niệm. Hai người khoác tay nhau, sánh bước vào Thủy Tạ.
Trong lúc chờ cà phê, Thanh lấy từ cặp một cuốn sách dày, bìa màu vàng. Mở trang bìa đầu tiên có chữ ký tặng, anh chậm rãi: - Đây là quà cho Lavande! Lùng mãi mới ra cuốn sách của Patrick Devile.
- Ô, tác giả hàng đầu văn chương Pháp hiện nay, sách viết gì vậy?
- “Yersin, dịch hạch và thổ tả”! Tiểu thuyết về cuộc đời, sự nghiệp nhà khoa học Alecxandre Yersin viết công phu, đan xen nhuần nhuyễn hiện tại - quá khứ, nội dung sâu sắc và cảm động. Sách dịch, xuất bản tại Việt Nam cuối năm 2013 nhân kỷ niệm Năm quan hệ Pháp - Việt Nam, 70 năm Ngày Yersin mất, 120 năm Đà Lạt . Dịp đó, tác giả sang giao lưu cùng công chúng văn chương ở Đà Lạt. Tặng sách… Để cô giáo củng cố thêm vốn tiếng Việt đấy, phải không hoa “Oải hương” tím ngọt ngào!
Lavande chớp chớp mắt: - Anh cũng hay tên em là hoa đó ư?
- Oải hương tượng trưng cho may mắn, mệnh danh là hoa của sự êm ái, tinh khiết như ánh mặt trời! Nếu đem hoa vào nhà rắc tung lên, Oải hương sẽ mang lại sự bình yên, hòa thuận! Thật diễm phúc nếu đưa được Lavande về!
Đôi má Lavande ửng hồng: - Cũng biết “ga- lăng” ghê! - Nói rồi, cô như lái hướng câu chuyện: - Cảm ơn nhé! Em sẽ đọc kỹ! –
Lavande nâng ly cà phê nhấm ngụm nhỏ, mơ màng dõi phía đỉnh núi Lang Bian lấp loáng ánh hoàng hôn:
- Anh Thanh, hồ nước mang tên bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương thế kỷ XIX đúng không?
- Đúng! Hơn trăm năm trước, sân Golf bên kia là bãi chăn thả gia súc, vùng hồ là thung lũng trồng lúa nước của người Lạch. Sau đắp đập và cầu Ông Đạo chặn dòng, người Pháp gọi Grand Lac (Hồ Lớn). Đến năm 1953, Chủ tịch Hội đồng Thị chính đổi tên là hồ Xuân Hương. Hồ còn có ý nghĩa là hồ của hương mùa Xuân nữa đấy!
Nâng mái tóc vàng tơ ôm gương mặt nhỏ nhắn thanh tú, tay chống cằm tư lự Lavande ngắm mặt hồ loang lãng đãng màn sương chiều bàng bạc…
- Thanh! Có việc chắc anh mới giúp được!
- Quan trọng không?
- Em chưa tìm được nhân vật này. À, cũng muộn rồi, ông đã mất. Là ước nguyện của bà nên em trao lại để anh tìm và chuyển tới con cháu người ta nhé! Lavande đưa Thanh chiếc hộp gỗ và mảnh giấy gấp tư: - Đây là địa chỉ ông bạn thân bà nội!
Đón chiếc hộp, Thanh xoay xoay trên tay, chợt thấy góc hộp chạm bạc hàng chữ: ÉLEN - LƯƠNG.
- Người cần tìm tên Lương ư?
- Vâng, sinh trưởng Đà Lạt, tốt nghiệp Trường Canh nông Versailles năm 1962!
Thanh thảng thốt: - Kỹ sư Lương! Ông mất rồi! Hóa ra…?
- Hy vọng anh sẽ dò ra con cháu ông! Bà bảo, kỷ vật chỉ gồm tấm hình chụp bà và ông Lương dưới vòm Jacaranda Acutifolia đêm lễ hội hoa, một bông hoa bạc ở Đà Lạt gọi Phượng tím, là cây hoa đứng bên lối vào Thủy Tạ!
- Ồ! Mình hiểu! Sao kỳ lạ vậy?
Lavande ngơ ngác: - Kỳ lạ là sao?
Thận trọng cất hộp vào túi trong áo vét, Thanh thì thầm: - Anh hiểu người này!
Chuyện của Thanh về kỹ sư Lương: Từ Pháp về, kỹ sư canh nông được giao thiết kế, giám sát thi công Vườn hoa Đà Lạt. Ông cũng được nhiều chủ biệt thự ở Đà Lạt, Sài Gòn, Nha Trang, Vũng Tàu “chọn mặt gửi vàng” xây dựng vườn hoa dinh thự. Không chỉ ương, trồng nhiều loài hoa đẹp, lạ từ bốn phương nhập về, kỹ sư được Đà Lạt, cả nước và thế giới biết danh vì miệt mài gần 50 năm nghiên cứu để đến đầu thập niên chín mươi thế kỷ trước đã nhân thành công hoa Phượng tím bằng phương pháp chiết cành. Màu hoa quý hiếm nhanh chóng lan rộng tô điểm thêm vẻ đẹp thành phố ngàn hoa lộng lẫy. Năm 1993, chính quyền Đà Lạt vinh danh ông là một trong những công dân tiêu biểu nhân kỷ niệm 100 năm Đà Lạt. Người Đà Lạt vẫn nhớ hình ảnh kỹ sư Lương chiều chiều chầm chậm chống ba- toong lần bước trên dốc Hòa Bình, đứng lặng ngắm cây Phượng tím lối vào chợ. Với người thân, ông kể: Khi rời Trường Canh nông Versailles, cô bạn Pháp tặng ít hạt giống. Không phụ công tỉ mẩn, chăm chút, hạt nảy mầm đem trồng hai bên đường vào chợ nhưng chỉ sống cây này! Cây trổ hoa từng chùm màu lam tím mong manh, lá kép hai lần, dáng hoa giống Phượng đỏ xứ mình nên dân ta gọi Phượng tím.
Làm cách gì nhân và ươm nhiều hoa để trồng? Phượng tím ra hoa nhưng không đậu quả. Ở Pháp hoa dễ kết quả bởi có loài chim mỏ cong khi hút nhụy đã đưa phấn vào đài hoa giúp thụ phấn. Thôi cứ thử tiến hành phương pháp nhân giống bằng cách chiết cành truyền thống. Từ thân cây độc nhất trước chợ, kỹ sư chiết, ươm thêm vài cây nữa mang trồng ở lối vào Thủy Tạ và Vườn hoa Đà Lạt song chỉ sống được cây ở Thủy Tạ. Không nản chí, ông nghiên cứu tài liệu, tiếp tục thử nghiệm và phương pháp chiết cành đã cho tỷ lệ cây ươm sống cao khi sử dụng một số hóa chất nhập ngoại kích thích mọc rễ, có chế độ chăm sóc đặc biệt nhằm tránh bệnh do ký sinh đối với những cây con cực kỳ nhạy cảm. Phấn khởi trước thành quả này, ông cộng tác với các kỹ sư trẻ ươm ra vài trăm cây. Sau này, tiếp nối ý tưởng ông Lương, có nhà khoa học qua lại bên Pháp, Úc trực tiếp đưa hạt về nước gieo. Công nghệ sinh học phát triển; gần đây, phương pháp nhân giống vô tính Phượng tím cho phép ươm đại trà, giống hoa không khan hiếm như trước. Nay Phượng tím không chỉ xuất hiện trên nhiều đường phố, khoảng đồi ở Đà Lạt, Lâm Đồng mà còn khoe sắc và hoa được mến mộ, tôn vinh tại không ít thành phố trong nước, cả Huế nữa.
- Trở lại quê hương giữa thời cuộc “bể dâu” nhưng chẳng lẽ ông Lương không nhớ những ngày ở Versailles và quên bà Élen?
- Phải nói, những hạt giống Phượng tím bà Élen tặng, kỹ sư Lương nâng niu, quý hơn tài sản ông có. Khi gieo hạt, ngày đêm thăm nom. Hạt nảy mầm và xòe những chiếc lá đầu tiên, ông trào nước mắt, nhảy cẫng lên như con nít: Très bien! Très bien! (Rất tốt! Rất tốt!). Niềm hạnh phúc của ông tựa thuyền trưởng Christopher Columbus xưa vui sướng khi tìm ra châu Mỹ. Vui là vậy, buồn thì… Lúc cây trước chợ chết, kỹ sư gầy rộc, ngơ ngẩn cả tháng trời, mái tóc bạc xóa sau từng đêm. Thế đấy, ông hao tâm tổn trí hơn nửa cuộc đời giữ gìn nguồn gen hiếm hoi và kiên trì nhân thành công Phượng tím. Hoa Élen, kỹ sư từng nuôi ý tưởng đặt tên hoa như thế!
- Anh ngụy biện quá hay cho ông cụ! - Lavande so vai trong chiếc áo len cao cổ màu cà phê sữa ấm áp, chun mũi, nheo mắt, nguýt Thanh.
- Nghiêm túc mà! Lavande cần chia sẻ với kỹ sư Lương và phân giải cho bà nội hiểu. Em biết không? Về nước, trí thức Lương nhanh chóng hòa nhập khí thế sục sôi của phong trào học sinh, sinh viên Đà Lạt đấu tranh, biểu tình phản đối chính quyền Mỹ - ngụy. Anh lọt vào tầm ngắm của an ninh, mật vụ, bị liệt vào “sổ đen”, nghi ngờ thời du học nhiễm ý thức hệ “cộng sản”, thường xuyên gọi lên tra vấn, âm thầm theo dõi nên kỹ sư không thể liên hệ thư từ với bà Élen. Mặt khác, mấy năm sau, Lương mắc căn bệnh quái ác là mất tiếng nói. Mỗi lần giao tiếp, phải dùng giấy bút đàm thoại.
Mừng là “giấc mơ” Phượng tím vẫn cháy bỏng, thôi thúc ông say mê làm việc! Nghĩa tình sâu nặng với bà Élen đã gieo niềm tin, hy vọng và nghị lực để kỹ sư theo đuổi, tìm cách chiết cành, ươm hoa Phượng tím! Đất nước khói lửa chiến tranh, tất yếu xảy ra bao điều ngoài dự kiến! Ông Lương từng nộp hồ sơ xin sang Pháp học thêm song dĩ nhiên chính quyền Sài Gòn trước 1975 khước từ thẳng thừng. Thất vọng, chỉ công việc chuyên môn mới giúp vợi nỗi buồn. Ngoài ba mươi tuổi, kỹ sư đành tính chuyện xây dựng gia đình!
- Cảm ơn Thanh! - Lavande nghẹn ngào: - Cầu không bao giờ xảy những cuộc chiến tranh đáng nguyền rủa. Chưa hình dung nổi sự mất mát lớn lao của ông Lương và bà nội trải qua nhưng Thanh ơi, duyên hoa, tình người thật cảm động! - Chăm chăm nhìn Thanh lau cặp mắt kính cận dày cộp, Lavande hỏi: - Một bất ngờ vừa đến với em, sao anh tường tận kỹ sư Lương thế!
Hơn phút im lặng, Thanh trang trọng chậm thốt từng từ: - Bởi muốn dành cho Lavande sự ngạc nhiên. Anh gọi kỹ sư Lương là ông nội đấy!
- Trời ạ! - Lavande bật ngả người về phía sau. Thoáng ngỡ ngàng, cô thốt khẽ: - Merci beaucoup, monsieur! Bà Élen yêu quý, cháu không ngờ gặp nhân duyên hi hữu thế này!
*
Mái đầu nghiêng tựa vai Thanh, Lavande khép mi, thổn thức:
- “Đời xin có nhau, dài cho mãi sau…”! Chưa lần em cảm nhận ý vị ca từ của Trịnh sâu lắng, đẹp đẽ, thánh thiện như tối nay… Thanh ơi, anh có nghĩ chúng mình sẽ gọi mãi tên nhau không?
N.T.Đ
(SDB17/06-15)
MAI HUY THUẬTNằm cuộn tròn trong cái rọ lợn Cuội mới có thì giờ ngẫm nghĩ về cái thân phận của mình. Cả cuộc đời dối trá, lừa gạt bây giờ bị tù hãm sau mấy cái nan tre tưởng như mong manh thế mà càng cựa quậy càng trầy da rách áo, không thể nào thoát được.
NGUYỄN VĂN VINH Thường thường, mỗi sớm tôi và các bạn gặp nhau ở quán cà phê vỉa hè. Ngồi vệ đường, không tiếng nhạc quấy phá phút tĩnh tâm để ngẫm ngợi sự đời, quả thú vị! Tôi biết các loại quán đều tiêu phí thời giờ của mình, nhưng quán cà phê ít tốn, ít nguy hiểm hơn quán bia ôm và các toan tính, bon chen trong vòng danh lợi gươm đao nên tôi không bỏ uống cà phê buổi sáng, ngày mình giết một tí, lại được chuyện vãn với nhau: nào thời sự, tin tức trên trời dưới biển, cũng vui!
LINH CHIKhi chỉ mới là giọt máu, sự kết hợp của hai nhiễm sắc thể XY bám vào dạ con của mẹ, nó đã không được công nhận. Chào đời, mẹ con nó ở với ông bà ngoại cùng các cậu, các dì cho đến năm nó tròn bảy tuổi. Nhà ngoại nó ở ven triền núi của vùng đồi miền trung du hẻo lánh độ chừng vài ba chục nóc nhà rải rác trên mấy quả đồi đầy hoa sim, hoa mua tím. Chiều chiều nó thường hay tha thẩn trước sân nhà ngắm nhìn những đàn chim bay về tổ, thả hồn theo những đám mây màu cánh vạc đùn lên phía sau dãy núi đối diện nhà ngoại và tưởng tượng, ước ao…
TRẦN CHINH VŨAnh nghĩ là mình có thể ngủ được trong đêm nay - ngủ ngon là khác nữa - Đêm qua anh đã ít ngủ rồi - Hơn nữa, cùng với cậu em trai anh lại vừa có cuộc đi chơi đêm ở công viên Đầm Sen, đến muộn mới về. Vậy mà cho đến lúc này, đã qua nửa đêm được ít phút, mắt anh vẫn cứ trơ ra, cứ như thể nó chưa biết khép lại bao giờ.
ĐÔNG TRIỀUMười hai giờ đêm.Tôi bước ra khỏi rào lưới sắt còn ngoảnh lại nhìn căn trọ, nơi cửa sổ vẫn phụt ra luồng sáng trắng bởi đèn điện. Tất cả đã im lặng. Tiếng cót két của đôi cánh cửa gỗ mà người thiếu phụ vừa khép lại hòa vào nhịp rơi lộp độp của những giọt sương trên lá, tiếng côn trùng trỗi lên cùng thanh âm mà con chim cú đâu đây vẫn bỏ tiếng rúc đều đều nghe rợn người.
PHẠM NGỌC TÚY“Ngày...tháng...nămDòng nhắn tin trên báo cho em biết rằng em đã tìm thấy anh. Cuối cùng thì chúng mình cũng nhận ra nhau. Anh thân yêu. Hôm nay trời không mưa và không nắng. Từ cửa phòng em nhòm ra có một cây trạng nguyên. Cây này nhô lên cao giữa khoảng trời xanh hiếm hoi. Những chiếc lá đến mùa, đỏ thắm màu xác pháo. Nó là cây hoa độc nhất ngoài cửa phòng em.
NGUYỄN BẢNHắn đến tôi, mặt thẫn thờ ngơ ngác như người vừa mất của. Tôi hỏi ngay:- Có chuyện gì vậy?- Không, không có chuyện gì.
ĐÔNG LA Sài Gòn mùa mưa, trời lúc nào cũng âm u. Những tán cây sẫm hơn, không khí nóng rát của những tháng cuối mùa khô đã được làm nguội lại, dịu mát. Mấy ngôi nhà cao lênh khênh dường như chỉ cần kiễng chân lên một chút là có thể gội đầu được trong những đám mây sũng nước, là là bay trên đầu.
ĐÀO PHONG LAN Tôi là đứa con gái duy nhất của cha mẹ, và trời cũng ban cho tôi một nỗi bất hạnh để tương xứng với niềm hạnh phúc của một đứa con chắc chắn được cưng chiều: Tôi bị liệt hai chân từ bé.
MAI HUY THUẬTCon tàu Thống nhất nhả Văn xuống ga Huế vào một trưa mưa tầm tã khiến Văn chợt thấm thía một câu thơ Tố Hữu:...“ Nỗi niềm chi rứa Huế ơiMà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên?”...
NGUYỄN VĂN THANHSau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi không ngờ được Ngọ hỏi làm vợ. Không giống như những cô dâu khác, ngày tôi về nhà chồng có dắt theo một đứa con riêng. Tên nó là Hòa. Ngọ rất thương yêu hai mẹ con tôi. Không có gì đáng trách anh ấy dù cuộc hôn nhân của chúng tôi không bình thường.
NGUYỄN LÊ VÂN KHÁNHTôi xa nhà trọ học thành phố khác. Dịp nghỉ ngắn ngày không về nhà được, tôi đón xe về thị trấn men con nước nhánh sông lớn về nhà ngoại. Từ ngoài ngõ con Bơ sủa váng, Vinh chạy ra ôm bụi chè tàu nơi đầu bến nước, gọi mạ ơi, Sương về.
NGUYỄN HÙNG SƠN Một buổi chiều cuối tháng ba trong lúc ngồi bón cháo cho chồng, bà Loan nhận thấy hôm nay Hào, chồng bà có những biểu hiện khác thường. Ông có vẻ suy nghĩ, ăn uống uể oải.
LỆ THANHBé Khánh Hạ - đứa con gái duy nhất của chị đã đi! Chiếc lá xanh độc nhất trên thân cây khô héo, khẳng khiu đã lìa cành. Ngọn lửa cuối cùng trong đêm dài trơ trọi của chị đã tắt ngấm trong bỗng chốc. Chị tưởng rằng mình sẽ không thể sống nổi trên cõi đời héo hắt này nữa.
HOA NGÕ HẠNHHọ Nguyễn ở Trung Lộc quê gốc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, Thanh Hóa. Gia phả ghi rõ, ông tổ của dòng họ theo chân Chánh đô An phủ sứ Phạm Nhữ Dực vào khai khẩn đất Thăng Hoa năm 1402. Ban đầu họ Nguyễn định cư tại Hương Ly. Đến đời sau, một nhánh trong tộc chuyển hẳn lên Trung Lộc, nằm ở thượng lưu sông Thu Bồn.
Đàm quỲnh NgỌcChiều nay, tôi nhận được điện khẩn của Tâm, bức điện vỏn vẹn chỉ có dòng chữ: “Thứ bảy tới, tao đi Hoa Kỳ, mày tới gấp”. Tôi không ngạc nhiên khi biết Tâm đi Hoa Kỳ, với nó, đi nước ngoài đã trở thành bình thường như các bà đi chợ. Tôi chỉ ngạc nhiên khi Tâm đã điện khẩn cho tôi, điều mà từ trước đến nay chưa bao giờ có.
TRẦN NGUYỄN ANH Trong gia đình tôi, dì là người đến sau cùng. Dì thường bảo tôi: “Ô Mai à, hãy coi dì là bạn nhé”. Tôi thẳng thừng bảo: “Tôi chỉ có thể coi dì như kẻ thù”.
NHẬT HÀ Lần đầu về thăm Đồng Tháp Mười, thú thật, tôi thấy có nhiều điều rất lạ, từ mảnh đất, sông nước, cây cối, chim muông tới các địa danh và nhất là con người.
CAO LINH QUÂN Ăn mày là ai? Ăn mày là... (Ca dao xưa)
LAM PHƯƠNGNàng không có sự lựa chọn nào khác. Cuộc đời không cho phép nàng lựa chọn. Ngôi nhà lá sùm sụp xám xịt như con ốc ma. Ba chị em không cùng cha và chưa bao giờ biết mặt cha. Và mẹ nàng, người đàn bà có khuôn mặt nhầu nhĩ như tấm lá mục úa, bươn bả mót máy làm thuê một ngày dẫn người đàn ông xa lạ về.