Tưởng nhớ nhà thơ Gia Dũng
1.
Tôi từ Hà Nội lên Tuyên Quang theo chuyến xe chiều. Vừa cởi bỏ ba lô thì có điện thoại của Nguyễn Hữu Dực: “Nhà thơ Gia Dũng đã bay về trời, hồi 12h37’ trưa nay - ngày 12/4/2019, tức 8/3 Kỷ Hợi”. Tôi bàng hoàng buông máy…
Trời ơi, chỉ cách đây năm ngày tôi đạp xe vào bệnh viện Đa khoa Tuyên Quang thăm ông. Nửa phần trên to béo, đầu húi cua, chằng chịt dây dợ y tế. Nửa phần dưới phủ một tấm khăn nhẹ. Ông nằm bất động. Tôi khẽ nắm bàn tay hỏi to: Anh Dũng ơi, có nhận ra em không? Hỏi hai lần đều không có phản ứng gì…
Rồi bà Bình vợ anh đến. Bà mang theo cháo, sữa và đồ thay ca trực đêm cho cháu Tuấn. Bà cho hay ông Dũng vào cấp cứu từ trước Tết dương lịch 2019, đến nay vừa tròn bốn tháng.
Nhớ lại giữa tháng 10/2014, khi được tin ông có lương hưu trí với chức danh Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Tuyên, cộng tiêu chuẩn lương thương binh được hưởng 7,5 triệu đồng một tháng. Tôi và nhà văn Vũ Xuân Tửu phóng ra ngõ chợ Tam Cờ mừng cho ông. Lúc đó ông mới bị tai biến nhẹ. Da bủng, mặt xệ, cử chỉ vụng về hơn. Hai chúng tôi nháy nhau không nói chuyện bệnh tật, chuyển nói chuyện thơ. Nhắc đến thơ mắt ông sáng lên, mái tóc bồng bềnh. Ông khoe dự kiến sẽ ra tập này, tập nọ.
Rồi không hiểu sao chuyện lại chuyển sang lương bổng, chức tước. Bà Bình có ý phàn nàn. Bỗng ông đứng lên với tay nóc tủ đưa cho tôi một tập dày công văn, giấy tờ. Tôi lật giở từng trang cũ, mới; có chữ đánh máy, chữ viết tay. Rồi chức danh, chữ kí và dấu mực đỏ. Đó là những nhận xét, xác nhận của các đơn vị quân đội, các cơ quan văn hóa từ Trung ương tới địa phương đánh giá về nhà thơ Gia Dũng - tác giả phần lời của ca khúc Bài ca Trường Sơn nổi tiếng, đánh giá sự đóng góp của ông với những tuyển tập, bộ sách khủng mà ông tâm huyết sưu tầm, biên tập, hiệu đính, chọn tên sách, màu bìa, tìm nguồn kinh phí, tìm nhà xuất bản, tổ chức in ấn, phát hành.
Trong số bút tích có chữ kí của các ông Xuân Thiêm, Đặng Quang Tiết, Nguyễn Trí Huân, Hữu Thỉnh… Họ là những cán bộ lãnh đạo nơi ông Gia Dũng đã từng công tác như Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Văn nghệ Hà Tuyên, Ty Thông tin Văn hóa Hà Tuyên, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học nghệ thuật Tuyên Quang… Lại có cả nhận xét thống nhất của các cơ quan Bảo hiểm xã hội, Sở Lao động - Thương binh xã hội… Và cuối cùng là Quyết định phê duyệt của UBND tỉnh Tuyên Quang có lí, có tình, đầy tính nhân văn.
2.
Nhà thơ Gia Dũng sinh năm 1940 ở huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Sau khi học hết cấp 2, mười tám tuổi, ông lang bạt lên Hà Nội, rồi kịp học một lớp sơ cấp kế toán. Sau đó ông ngược núi lên thị xã nhỏ bé bên bờ sông Lô lập nghiệp. Thoạt đầu, ông làm việc ở ngành thương nghiệp, nhưng nỗi ham mê thơ phú, viết lách đã đưa ông đến với Phòng Văn nghệ Ty Văn hóa - Thông tin. Ở đây ông tập làm thơ, biểu diễn văn nghệ, kẻ vẽ áp phích, khẩu hiệu cùng lứa với các ông Bùi Huy Tuyên, Lê Cảnh Đức, Khuất Quang Lân, Tất Ứng, Phạm Đức Hùng…
Nhưng cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ đã diễn ra. Tháng 4/1965 ông gia nhập quân đội ở một trung đoàn bộ binh cơ động do trung tá Nguyễn Chuông chỉ huy. Mùa đông 1967 đơn vị hành quân vào chiến trường. Biết bao gian khổ, mất mát đã xảy ra. Để giữ vững tinh thần cho chiến sĩ, trung đoàn trưởng cho gọi các hạt nhân văn nghệ như Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Phúc Ấm, Gia Dũng, Tiêu Sơn… làm Tờ tin trung đoàn, tập trung sáng tác thơ ca, chép các bài hát hay, in ti pô xung kích chuyển tới các trung đội, tiểu đội.
Nhờ đó mà Gia Dũng viết được bài thơ Trường Sơn chính trên con đường mà anh cùng đồng đội đang dấn bước. Bài thơ 28 câu, thể tự do, đầy không khí lạc quan, tin tưởng:
Trường Sơn ơi, trên đường ta đi qua không dấu chân người
Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác
Dừng ở lưng đèo mà nghe suối hát
Ngắt một đóa hoa rừng gài lên mũ ta đi.
Hoặc:
Miền Nam, miền Nam lửa đốt lòng ta
Hỡi Trường Sơn hãy thành con ngựa sắt
Và rừng xanh thành vạn khóm tre ngà
Cho con cháu Bác Hồ làm Thiên Vương đuổi giặc.
Bài thơ ấy chuyển ra miền Bắc, được in trang trọng trên báo Nhân dân. Rồi được nhạc sĩ Trần Chung phổ nhạc. Bài ca Trường Sơn như được thăng hoa, bốc lửa, vang xa tới mọi miền đất nước qua giọng ca hào sảng của nghệ sĩ Quốc Hương trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Ca khúc đó đã góp phần thúc giục bao thế hệ thanh niên ra trận góp sức cho giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Nhà báo Phí Văn Chiến cho biết: Những tháng năm ác liệt đó, ở mặt trận Quảng - Đà, Bài ca Trường Sơn là một trong mười bài hát bắt buộc của lực lượng vũ trang. Những người lính là học sinh Trường Tân Trào, là con em Tuyên Quang khi gặp nhau tự hào cất cao tiếng hát, vì biết tác giả lời ca là một người đồng hương sông Lô.
Ông Gia Dũng kể lại: Mùa hè 1972 do bị thương ông được chuyển ra Bắc điều dưỡng. Một lần được về thăm mẹ, thăm quê lúa Thái Bình, đến thị xã khi xuống xe, ông sững sờ bắt gặp bức tranh cổ động khổ lớn, vẽ đoàn quân hành quân ra trận. Chạy dài theo bước chân người lính là câu hátCòn gì vui hơn đường ra trận mùa xuân và những giọt nước mắt cảm động của nhà thơ đã chảy ra. Rồi Gia Dũng lại tay bút, tay súng ra chiến trường. Ông có mặt ở Sài Gòn ngày 3/5/1975, cuối năm 1978 ông rời Tạp chí Văn nghệ quân đội sau nhiều năm làm phóng viên và biên tập viên cho tờ báo văn hàng đầu lực lượng vũ trang. Ông trở về Phòng Văn nghệ Ty Thông tin - Văn hóa Hà Tuyên lúc này đã chuyển lên thị xã Hà Giang.
Rồi sự kiện chiến tranh biên giới tháng 2/1979 xảy ra. Gia Dũng - người lính của Bài ca Trường Sơncó mặt ở Hà Tuyên thời điểm đó. Với sự năng nổ, nhạy bén, được sự hỗ trợ của đồng nghiệp, trong tháng 2 và 3/1979, hai số báo Văn nghệ Hà Tuyên chống bành trướng được in số lượng lớn phát hành tận bản làng biên giới, các đơn vị nông lâm trường, trường học, tố cáo dã tâm của bọn xâm lược, nêu những gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân toàn tuyến biên giới.
Tiếp theo hai số báo xung kích, với kinh nghiệm làm báo ở chiến trường, khả năng tập hợp đội ngũ văn nghệ sĩ, Gia Dũng đề xuất chuyển tờ báo sang dạng tạp chí, kiểu khổ đứng như Văn nghệ quân đội. Từ 1980 đến giữa 1982, tám số tạp chí Văn nghệ Hà Tuyên dày 80 đến 130 trang in với rất nhiều chuyên mục thiết thực, hấp dẫn đã ra đời.
Tháng 8/1982, thường vụ Tỉnh ủy có Quyết nghị thành lập Hội Văn nghệ Hà Tuyên do ông Đặng Quang Tiết - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo làm chủ tịch. Nhà thơ Gia Dũng được chỉ định làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký.
Để phục vụ kịp thời sản xuất, chiến đấu bảo vệ biên giới, tạp chí văn nghệ lại chuyển thành báo Văn nghệ Hà Tuyên do Gia Dũng giữ chân Tổng biên tập và tờ báo này ra trọn 30 số từ 12 đến 16 trang cho đến Đại hội Văn nghệ lần thứ nhất tháng 1/1988. Đó là giai đoạn tập hợp đội ngũ văn nghệ sĩ hùng hậu, cộng tác viên tích cực các chuyên ngành Văn - Thơ - Nhạc - Họa - Nhiếp ảnh nở rộ.
Đây cũng là thời kì Văn nghệ Hà Tuyên mở nhiều triển lãm, nhiều trại sáng tác quy củ, quy mô. Các tập Điểm tựa, Cực Bắc chiến hào, Hà Tuyên - mặt trận, Tân Trào 1945-1985, Măng non Tân Trào,Thơ và văn Hà Tuyên… được liên kết xuất bản. Có thể nói đó là thời kì sung mãn, trong đó phải kể đến sự năng nổ, đóng góp tích cực của nhà thơ Gia Dũng.
3.
Đại hội Văn nghệ Hà Tuyên lần thứ nhất tổ chức ở Nông Tiến trong hai ngày 19-20/1/1988. Trong danh sách trúng cử Ban Chấp hành không có tên nhà thơ Gia Dũng. Lí do ông thiếu phiếu bầu không phải là không chính đáng. Cái tôi cống hiến, cái tôi tài năng-nghệ sĩ đã đẩy ông xa cách những đồng chí, đồng đội. Hơn nữa cái ích kỉ, cá nhân của một số người trong cuộc đã không được tháo gỡ kịp thời, thiếu đi lòng vị tha thể tất. Sau vài năm, Gia Dũng lặng lẽ rời Tuyên Quang lao vào sáng tác tự do, tình nguyện làm một lão “ăn mày thơ”, người “đã cất xây đền thơ”, người “quyết tôn vinh thơ Việt” khi tuổi đời xấp xỉ 50.
Trong vòng 25 năm, từ 1991 đến 2016, không một đồng lương hưu, không nhà ở cố định, không xe máy, nhà thơ Gia Dũng lặng lẽ đi “tầm thi thiên hạ”, miệt mài chung thủy yêu thơ. Theo thống kê chưa đầy đủ, đến nay Gia Dũng đã xuất bản 14 tập thơ riêng; đã sưu tầm biên soạn, tìm kinh phí xuất bản 30 tuyển tập, hợp tuyển thơ và đã biên soạn khoảng 20 đầu sách thơ khác đang chờ in.Có bộ đã đoạt giải Bạc Hội Xuất bản Việt Nam, có cuốn được đưa vào kỉ lục sách Việt, nhiều cuốn được phát hành sang các nước như Hoa Kì, Canada, Ba Lan, Hungary…
4.
Chiều 14/4/2019 tại phố chợ Tam Cờ, phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang, các cơ quan đoàn thể, gia đình nội ngoại, bà con khối phố, đông đảo bạn bè, đồng nghiệp đã long trọng làm lễ tiễn đưa Gia Dũng về nơi an nghỉ cuối cùng.
Đã khép lại một người thơ có tuổi đời 80 và tuổi làm thơ, yêu thơ, say thơ 60 là Gia Dũng - một người bình thường đã vượt lên sự bình thường để làm được câu chuyện phi thường - một mình rong ruổi khắp đất nước từ Bắc xuống Nam, từ biển lên rừng để đãi cát xây ngôi đền thi ca Việt Nam.
Bất giác trong mùi khói hương, trong tiếng bước chân lặng lẽ của dòng người đến tiễn đưa, tôi nhìn lên bầu trời đầu hạ của thành phố Tuyên Quang mà tưởng như đọc được câu thơ tự bạch, in trang đầu tập thơ cuối cùng của ông:
Chao ôi thế thái nhân tình
Thân mình mình chịu, phận mình mình cam.
Xin cúi đầu vĩnh biệt ông.
Thành Tuyên, đêm 14/4/2019
Theo KTS Thái Thành Vân - VNQĐ
Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên toàn quốc.
Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…
1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.
Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.
Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.
Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.
Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).
Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.
Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.
Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.
Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.
Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".
Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.
hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?
Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.
Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.
Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn Nguyễn Đình Thi - người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.