DƯƠNG PHƯỚC THU
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, nhận chỉ thị của Hồ Chủ tịch, đại diện Ủy ban Nhân dân lâm thời Thừa Thiên và Ủy ban Nhân dân Trung Bộ đóng tại Huế đã đến mời cụ Huỳnh Thúc Kháng, một tiến sĩ Nho học yêu nước, một nhà báo nổi tiếng, một người không đảng phái ra Hà Nội gặp cụ Hồ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Huỳnh Thúc Kháng (hàng đầu, thứ nhất từ phải sang) trong Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Ảnh: internet
Mới đầu cụ Huỳnh do dự “để còn xem”. Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp gửi các bức điện tha thiết mời, cụ Huỳnh nhận lời(1).
Lúc bấy giờ, nhà thơ Tố Hữu đang làm Phó Bí thư Xứ ủy Trung Bộ, trong hồi ký Nhớ lại một thời, ông viết: “Một tháng sau lại được điện của Trung ương bảo đến gặp cụ Huỳnh Thúc Kháng và mời cụ ra làm việc với cụ Hồ. Cụ Huỳnh vốn tính khẳng khái, tuy đã biết uy tín lớn của ông Nguyễn Ái Quốc, còn tỏ ý dè dặt: không biết có thích hợp không với chế độ mới mà cụ gọi là cộng sản. Chúng tôi phải thưa với cụ Huỳnh rằng Hồ Chủ tịch rất quý trọng cụ, xin mời cụ ra làm việc nước với Hồ Chủ tịch. Nghĩ một lát, cụ nói: “Thôi được, tôi đi ngay nhưng vài ngày thôi rồi lại trở về”. Vì vậy khi lên ô tô, cụ Huỳnh chỉ mang theo một gói áo quần nhẹ tênh. Sau mới biết ra đến Hà Nội, gặp cụ Hồ, hai cụ hàn huyên thế nào đó, cụ tỏ ý tâm đắc và chịu ở lại luôn, nhận một nhiệm vụ rất quan trọng được Hồ Chủ tịch giao cho là Bộ trưởng Bộ Nội vụ”(2). Và chỉ ba tháng sau, trước lúc lên đường sang Paris với vai trò là thượng khách của Chính phủ Pháp, Hồ Chủ tịch đã tin tưởng ủy thác, giao Quyền Chủ tịch nước cho Huỳnh Thúc Kháng gánh vác. Với phương châm xử thế “dĩ bất biến ứng vạn biến” theo lời của Hồ Chủ tịch, cụ Huỳnh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quan trọng trong một thời đoạn đất nước trước hiểm họa “ngàn cân treo sợi tóc”...
Ngày rời Huế, ngoài số cán bộ của Xứ ủy tháp tùng, còn có ông Nguyễn Xương Thái, một người Quảng Nam, từ năm 1926 ông đã tích cực vận động thành lập Công ty Cổ phần Huỳnh Thúc Kháng, tham gia quản lý báo Tiếng Dân, trực tiếp điều hành mọi hoạt động của Nhà in “Tiếng Dân” và giao thiệp với cổ đông của Công ty được cụ Huỳnh rất tin cẩn, coi như thư ký riêng, cùng ra Hà Nội để giúp việc cho cụ Huỳnh làm việc nước.
Ra Hà Nội được 10 ngày, thì có tin điện từ Huế báo: con trai ông Thái mới 19 tuổi là tự vệ cứu quốc bị bệnh đau bụng chết. Nguyễn Xương Thái vốn bị bệnh đau dạ dày lâu ngày, nghe tin con chết đột ngột, ông buồn lâm bệnh nặng thêm. Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Hữu Nam giới thiệu Nguyễn Xương Thái vào điều trị tại Bệnh viện Đồn Thủy, Hà Nội, với tư cách là cán bộ của Bộ Nội vụ.
Cuối tháng 5/1946, ông Trần Đình Phiên, người có tên ghi trên báo Tiếng Dân dưới vai trò quản lý ngay từ số đầu tiên (8/1927) đến số cuối cùng (4/1943) là nhân vật thân cận của chủ bút Tiếng Dân gửi điện và thư cho cụ Huỳnh đang ở Hà Nội, xin cụ cho Nguyễn Xương Thái trở lại Huế hợp lực cải tổ Ban Quản trị Nhà in “Tiếng Dân”, thay mặt cụ Huỳnh đang bận công việc Chính phủ. Sau một thời gian điều trị được ra viện, cụ Huỳnh Thúc Kháng xin Chủ tịch Hồ Chí Minh cho ông Thái về Huế. Hồ Chủ tịch hỏi: “Làm công việc đó, lâu mau thì xong?” Huỳnh Thúc Kháng đáp: “Theo điều lệ của “Tiếng Dân”, phải mất hai tháng, Hồ Chủ tịch nói với Nguyễn Xương Thái: “Về ráng làm cho giỏi rồi trở ra”.
Trước hôm về Huế, Hồ Chủ tịch tặng Nguyễn Xương Thái tấm ảnh của Người và nói: “Hương Giang thân hữu như tương vân”. Ngày hôm sau, đích thân Hồ Chủ tịch dẫn Nguyễn Xương Thái ra xe đi cùng ô tô với chị Nguyễn Khoa Bội Lan(3) từ Huế ra Hà Nội, nay trở về, và chia tay ông với tình cảm thắm thiết.
Mấy hôm sau, biết tin Nguyễn Xương Thái về Huế, nhà báo Thúc Tề, cán bộ Ty Thông tin Tuyên truyền Thừa Thiên đã có cuộc trao đổi với ông về tình hình Thủ đô sau ngày thành lập nước, về cụ Hồ, về công việc và sức khỏe cụ Huỳnh..., mà Thúc Tề gọi là lời của “Một người thân cận của cụ Huỳnh Thúc Kháng thuật lại”.
Nhà báo, nhà thơ Thúc Tề tên thật là Nguyễn Thúc Nhuận, sinh năm 1916, quê ở làng Mỹ Lam, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông làm thơ viết báo từ năm 19 tuổi, có chân trong Ban biên tập và làm chủ bút của nhiều tờ báo ở Sài Gòn; có thơ tuyển trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân. Sau Cách mạng tháng 8/1945, ông hăng hái tham gia hoạt động trong Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên, cùng với Hải Triều, Hà Thế Hạnh thành lập Sở Tuyên truyền Trung Bộ. Đầu năm 1946, Thúc Tề được tổ chức phân công cùng ông Hoàng Thượng Khanh thành lập Ty Thông tin Tuyên truyền Thừa Thiên.
Đang trong giai đoạn tràn đầy nhiệt huyết cách mạng, tích cực hoạt động sôi nổi trên các lĩnh vực tuyên truyền văn hóa, sáng tác văn học và báo chí, vào đầu tháng 12 năm 1946, Thúc Tề bị thực dân Pháp bí mật bắt cóc, thủ tiêu vứt xác ở gần ga Truồi, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Theo cuốn Chân dung các nhà báo liệt sĩ do Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản năm 1999, Thúc Tề là nhà báo liệt sĩ đầu tiên kể từ sau ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bài báo dưới đây là tác phẩm cuối cùng của nhà báo Thúc Tề mà chúng tôi vừa tìm được.
Nhân kỷ niệm 72 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh ngày 2 tháng 9, chúng tôi xin giới thiệu nguyên văn bài báo của Thúc Tề đăng trên tờ Quyết Thắng, cơ quan của Việt Minh Trung Bộ, do ông Lê Chưởng làm chủ bút, số 56 ra ngày 20/7/1946.
BUỔI DIỆN KIẾN ĐẦU TIÊN GIỮA CỤ HỒ CHỦ TỊCH VÀ CỤ HUỲNH THÚC KHÁNG
Bình tĩnh và giản dị là hai đức tính rất đẹp của cụ Hồ Chủ tịch, cũng như sáng suốt và khôn khéo là hai mặt khác của tài năng cụ khiến một ký giả ngoại quốc gọi cụ là một nhà chính khách đáng sợ (politieien redòutsble). Nhưng bạn đừng tưởng vì nhiễm thói quen của người chính khách mà cụ bình tĩnh đến dửng dưng. Trái lại, cụ là người rất hay cảm động. Cảm động vì đức hy sinh quá cao của các chiến sĩ, vì những bức thư của các em bé, vì những quà tặng của những đồng bào ở chốn trời xa. Nhưng có mối cảm động sâu xa nhất của cụ là lúc đầu tiên, diện kiến cụ Huỳnh Thúc Kháng. Về chỗ này, tôi xin nhường lời cho ông Nguyễn Xương Thái, người thư ký tay chân cho cụ Huỳnh Thúc Kháng vừa ở Thủ đô về Thuận Hóa. Không bỏ lở một dịp tốt, tôi đã đến thăm ông và đột ngột hỏi:
- Ông già vẫn mạnh chứ, anh?
- Nhất định như thế rồi mặc dầu mấy hôm đi đường có vội vàng vất vả và từ bữa nhận trọng trách, công việc có bề bộn.
- Anh kể cho tôi nghe cuộc hội kiến đầu tiên giữa hai cụ.
- Vâng, có thể là lịch sử lắm và rất cảm động. Hôm đó chúng tôi đến Bắc Bộ Phủ vào tám giờ tối. Cụ Hồ đi vắng, chỉ có ông Võ Nguyên Giáp tiếp chúng tôi. Đêm ấy, hai thầy trò cùng nghỉ trên giường của cụ Hồ, một cái giường chăn nệm sạch sẽ mà giản dị vô cùng. Sáng lại, lúc tôi dùng trà thì cụ Hồ về tới. Dường như đã được báo trước nên cụ đi vào thật nhanh, cởi vội chiếc mũ và cây ba toong rồi chạy lại reo lên hai tiếng: “Cụ Huỳnh!” Đoạn hai ngài ôm nhau xúc cảm đến rơi lụy. Tiếng reo của Hồ Chủ tịch giờ con vang trong tai tôi vì đó là âm thanh đã đánh dấu cho bước đi của dân tộc. Lần này là lần đầu hai ông lão gặp nhau. Kẻ gần sáu chục, người trên bảy mươi; tuy chưa có dịp trùng phùng chớ đã từng đếm bước của nhau đi trên con đường bôn tẩu quốc sự. Nhưng cụ cố thân sinh ra Hồ Chủ tịch vừa là bạn thân của cụ tôi, lúc cụ cố còn ở Huế. Thế rồi hàn huyên xong, hai ngài liền bắt tay vào việc.
- Giờ ngoài việc Quyền Chủ tịch, cụ Huỳnh giữ những trọng trách nào?
- Nội vụ, Tuyên truyền và Công an, cụ tôi làm việc không ngừng. Có khi mới ba giờ sáng đã ra ngồi bàn giấy. Cũng thừa may có ông Hoàng Minh Giám là một tay giúp việc đắc lực. Ồ, còn cụ Chủ tịch thì lại bận vô cùng. Lắm hôm, không lựa được lúc rỗi mà xơi cơm. Tiếp các thượng quan Trung Hoa, phái bộ Mỹ, các tay đặc phái viên thông tấn và đại biểu ở các nơi về. Cụ biết rất nhiều thứ tiếng và nói tiếng Mỹ rất sành sỏi.
- Nhờ con mắt nhà báo, chắc anh đã gặp nhiều nhân vật quốc tế?...
- Có. Tôi đã gặp đại tướng Lư Hán trong một bữa dạ yến. Lư tướng quân tuổi gần năm mươi, người rất có dáng vẻ quan võ mà thích chơi văn. Hôm ấy ngài có xin cụ Huỳnh làm ba bài thơ, cụ làm một hơi thì xong, dường như Lư tướng quân cũng lấy làm thú.
- Anh có để ý đến đời sống bên trong của cụ Hồ?
- Cụ thì thật là một bực vong kỷ. Sống đạm bạc đến phi thường. Thủy chung cụ chỉ có mấy bộ ka ki và mấy chiếc sơ mi. Đã mấy lần mấy ông tính thưa để may đồ cho cụ mà cụ gạt đi, đến khi gần đi Pháp cụ mới chịu để may. Cụ chưa khi nào nghĩ chu đáo cho mình, thật điều ấy làm cho những kẻ giá áo túi cơm nghe đến đủ xấu hổ mà chết. Cụ thường đi dạo chơi một mình và ít khi ngờ đến khúc nhạc kính mến của quốc dân đương vang động bên mình.
Những tin tức ở trời Tây gửi về giúp cho ta nhận định rằng cụ Hồ Chủ tịch của chúng ta có thừa phong độ của một bậc quốc trưởng, của một chính khách quốc tế. Chỉ một điểm đó cũng đủ làm cho ta được ấm lòng, vì nghĩ rằng quốc thể của ta đã được cụ nâng cao, trong lúc cụ đã vẻ vang giới thiệu dân tộc chúng ta ở giữa chốn năm châu chung chợ”.
D.P.T
(TCSH343/09-2017)
-------------------
1. Nguyễn Thành, Lịch sử báo Tiếng Dân.
2. Tố Hữu, Nhớ lại một thời (hồi ký), Nxb. VH-TT, 2002.
3. NB, Chủ nhiệm TC Ánh Sáng, cơ quan của Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Trung Bộ.
4. Bí danh của Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên.
THANH TÙNG
Nhạc sĩ Phạm Duy không phải người Huế, nhưng qua những lần dừng lại ở Huế ông đã cho ra đời nhiều giai điệu trữ tình và nhiều hình ảnh đẹp, sâu lắng, trong đó thấp thoáng nhiều bóng hồng xứ Huế.
NGUYỄN QUANG HÀ
Để giữ gìn thành phố Huế, chính quyền miền Nam tổ chức nhiều đồn bốt để bảo vệ. Ở phía Nam Huế có đồn An Cựu gần núi Ngự Bình.
HUY CẬN - XUÂN DIỆU
(Trích)
DƯƠNG PHƯỚC THU
Ngày 22/7/2021, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức buổi tọa đàm khoa học lấy ý kiến cho Đề án xây dựng Phòng Truyền thống Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay.
DƯƠNG HOÀNG
Trải qua những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc tập hợp dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhân dân Thừa Thiên Huế đã từng bước được rèn luyện, thử thách trong gian khó và cùng lớn lên với những tên gọi, những hoạt động, nhiệm vụ cũng thay đổi qua từng giai đoạn để phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tại của phong trào cách mạng.
HÀ KHÁNH LINH
Còn sống sót sau 30/4/1975 chúng tôi thường tìm đến nhau dẫu có người thân thể không còn nguyên vẹn, hoặc mắc một số bệnh nào đó do di chứng của chất độc hóa học màu da cam Diocine của Mỹ, hoặc bị sốt rét ác tính, hoặc bị tra tấn khi rơi vào tay giặc…
NGUYỄN QUANG HÀ
Chừng 9 giờ tối anh em du kích ra đón chúng tôi ở nghĩa trang làng.
PHƯỚC HOÀNG
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, tại sân vận động Huế, trước sự chứng kiến của hơn một vạn người, nhà thơ Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên tuyên bố, chính quyền đã về tay nhân dân, đồng thời ra mắt Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời Thừa Thiên.
MẶC HY
(Nhớ về nhạc sĩ Nguyễn Hồng và các bạn văn nghệ hy sinh 40 năm trước)
MINH ĐẠO
Khi tôi viết nhưng dòng này, tôi không còn nhìn thấy gì nữa. Bóng tối bao phủ lấy tôi đã 10 năm qua rồi.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Nhà báo - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh Võ Giáp, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho yêu nước, mà thân phụ là một “thầy đồ” trường huyện.
XUÂN HOÀNG
Hồi ký
(Trích Chương V, tập II - "Trường tư thục Thuận Hóa")
PHẠM PHÚ PHONG
Người già thường hay nghĩ ngợi về quá khứ. Không biết có phải vì thế hay không mà khi đọc lại Biên niên Sông Hương[1], tôi bỗng nhớ đến một cuộc hội thảo về Tạp chí Sông Hương diễn ra cách đây gần tròn 37 năm.
VŨ THỊ THANH LOAN
1. Lemur Nguyễn Cát Tường là một họa sĩ trẻ tài năng của khóa IV trường Mỹ thuật Đông Dương (1928 - 1933). Sau khi tốt nghiệp, ông thường xuyên cộng tác với báo Phong Hóa, Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn.
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Chiếc áo dài đầu tiên đời tôi được mẹ may vào năm tôi lên Đệ Thất (lớp 6 bây giờ). Biết nói sao niềm vui sướng của tôi khi lần đầu mặc chiếc áo dài ấy!
TRẦN TRUNG SÁNG
Khoảng mùa đông 1970 - 1971, khi đang còn đang học lớp 10, trong một chuyến phiêu lưu lãng mạn và rồ dại nhất của tuổi thiếu niên, tôi có lần lạc bước đến một xóm nhỏ gần bên cầu Gia Hội, và đã gặp ông: họa sĩ Lê Vinh, người họa sĩ vẽ tranh xi-nê lừng danh nhất xứ Huế thời bấy giờ. Lúc này, ông chừng độ tuổi 30, người dong dỏng, tóc vuốt ngược, sơmi màu, quần jean, giày cổ cao, dáng dấp phong trần, như bước ra từ màn bạc!
HOÀNG PHƯỚC
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ, tiếp đó, ngày 24 tháng 2 năm 1946, cử tri toàn tỉnh Thừa Thiên phấn khởi nô nức đi bầu Hội đồng Nhân dân tỉnh và Hội đồng Nhân dân thành phố Huế. Đây là ngày hội lớn chưa từng có trong lịch sử của toàn thể Nhân dân Việt Nam sau ngày đất nước được độc lập.
TRẦN NGUYÊN HÀO
Năm 1946, lần đầu tiên toàn thể người dân Việt Nam được hưởng và thực thi quyền làm chủ, tự do lựa chọn bầu ra những người đại diện xứng đáng gánh vác công việc chung của đất nước; cùng với đó là những tư tưởng về dân chủ, pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại bài học giá trị cho mai sau.