Công tác quản lý và bảo tồn âm nhạc cung đình Huế

16:01 25/06/2009
THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

Dàn nhạc cung đình Huế(www.simplevietnam.com)

Di sản văn hóa âm nhạc Huế bao gồm di sản văn hóa âm nhạc dân gian và văn hóa âm nhạc cung đình. Văn hóa âm nhạc dân gian Huế có gốc rễ từ lâu đời với đặc trưng phong phú, đa dạng, tài hoa, sâu lắng, trữ tình, giàu chất nhân văn, gắn bó với thiên nhiên, thấm đượm hương đồng gió nội. Văn hóa âm nhạc cung đình Huế manh nha từ thời các chúa Nguyễn và phát triển đến đỉnh cao dưới thời các ông vua Nguyễn, đặc biệt là dưới thời ông vua Tự Đức nổi tiếng là ông vua thi sĩ. Hai dòng văn hóa ấy không đối lập, lấn át nhau, mà cùng nhau đan xen, song song tồn tại. Văn hóa dân gian là nguồn, là cơ sở. Văn hóa cung đình Huế là sự chọn lọc tiếp biến, tinh chế và nâng cao từ văn hóa dân gian cho phù hợp với lối sống cung đình. Có thể nói văn hóa cung đình Huế mang âm hưởng văn hóa dân gian Huế cũng như ông vua Nguyễn mang tâm hồn của người dân xứ Huế.

Quốc gia nào cũng có nhạc lễ riêng. Các triều đình Nho giáo phong kiến càng trọng lễ nhạc. Vua Minh Mạng đã viết “Âm nhạc tịnh trần hòa kỳ tâm dĩ dưỡng kỳ chí. Nghiên xuy tề hiến thủ kỳ thị nhi giới kỳ phi”. Nghĩa là âm nhạc có tác dụng làm hòa dịu tình cảm và di dưỡng ý chí con người, sân khấu để người xem nhận lấy cái phải, cái đúng và cảnh giác với cái sai. Như thế, có thể thấy triều đại phong kiến cuối cùng này đã đánh giá rất cao chức năng giáo dục của nghệ thuật.

Để bảo tồn những giá trị văn hóa Nhã nhạc cung đình Huế, những năm qua, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tổ chức thực hiện phục hồi Nhã nhạc và đạt được một số kết quả đáng khích lệ.

1. Những việc đã thực hiện để bảo tồn và phục hồi Nhã nhạc:

- Từ năm 1993-1995, sau khi di sản kiến trúc Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa nhân loại, một dự án quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Huế đã được đệ trình Chính phủ Việt Nam.

- Ngày 12/2/1996, Chính phủ Việt Nam đã có Quyết định số 105/TTg phê duyệt Dự án Quy hoạch bảo tồn và Phát huy giá trị di tích Cố đô Huế 1996-2010, trong đó mục tiêu bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể cung đình Huế là Một trong Ba mục tiêu chính của Dự án và được chỉ rõ: Bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống cung đình bao gồm: Nhạc cung đình, Múa cung đình, Tuồng cung đình, Lễ hội cung đình.

- Ngày 20/1/1998, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã ra Nghị quyết số: 06-NQ/TV về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế; trong đó khẳng định bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể cung đình Huế là một trong 3 mục tiêu chính của ông cuộc bảo tồn di sản văn hóa Cố đô Huế.

- Ngày 18/6/1999, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ra Quyết định số: 1264/QĐ-UB về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế; trong đó khẳng định bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể, nghệ thuật truyền thống văn hóa cung đình Huế... để không ngừng nâng cao khả năng hưởng thụ văn hóa của nhân dân và phục vụ cho sự nghiệp phát triển du lịch của tỉnh nhà. Đồng thời cho phép thành lập Nhà hát Truyền thống Cung đình Huế để bảo tồn Di sản văn hóa phi vật thể cung đình Huế.

- Ngày 30/7/2001, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã ra Nghị quyết số: 04-NQ-TU về tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế trong thời kỳ 2001-2005 theo Quyết định 105/TTg của Thủ tướng Chính phủ; trong đó mục tiêu bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể cung đình Huế cần tiếp tục đẩy mạnh và phát huy giá trị.

- Ngày 9/4/2002, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã có công văn số 731 VH-UB về việc lập hồ sơ Âm nhạc Cung đình Việt Nam - Nhã nhạc, đề nghị UNESCO công nhận là Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại (đợt 2) để tạo điều kiện phục hồi nền âm nhạc truyền thống Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị mai một.

- Ngày 24/7/2002, Chính phủ Việt Nam đã có Công văn số: 4089/VPCP-VX về việc lập hồ sơ Âm nhạc Cung đình Việt Nam - Nhã nhạc là loại hình âm nhạc truyền thống tiêu biểu của Việt Nam để đề nghị UNESCO công nhận là Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại đợt 2, năm 2003.

- Tháng 3/1994, UNESCO phối hợp với Bộ Văn hóa Thông tin và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tổ chức Hội nghị quốc tế về Bảo vệ và giữ gìn phục hồi Văn hóa phi vật thể vùng Huế. Sau Hội nghị, Bộ Văn hóa Thông tin và UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã có các nội dung cụ thể để bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể cung đình Huế. Hội nghị đã đề xuất mở lớp Nhã nhạc bậc đại học tại trường Đại học Nghệ thuật Huế.

- Dự án đào tạo Nhã nhạc đầu tiên ở Việt Nam đã được xây dựng và được Bộ Giáo dục Đào tạo chấp nhận. Chính phủ Nhật Bản thông qua Japan Foundation Asia Center đã tài trợ cho khóa học này, cùng với kinh phí đào tạo của Việt Nam, lớp chính thức được khai giảng vào tháng 9 năm 1996. Lớp Nhã nhạc này đã có 15 sinh viên (tuổi từ 18-25) theo học các nhạc cụ thuộc dàn Đại nhạc và Tiểu nhạc. Trường đã mời 49 lượt Giảng viên trong và ngoài nước về âm nhạc (Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Việt Nam) đến Huế để giảng dạy về Nhã nhạc. Các sinh viên được công nhận tốt nghiệp đã về công tác tại Nhà hát Cung đình Huế thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.

- Tiếp theo, Dự án đào tạo diễn viên ca múa cung đình Huế bậc Cao đẳng với 28 diễn viên đã được Bộ Giáo dục Đào tạo chấp nhận. Sau khi tốt nghiệp, đội ngũ diễn viên này cũng đã về công tác tại Nhà hát Nghệ thuật Cung đình thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.

- Song song với những vấn đề nêu trên, Nhà hát Nghệ thuật Cung đình Huế đã được thành lập, bước đầu đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát tài liệu lịch sử và đã bảo tồn được một số bản nhạc cung đình Huế như: Mười bản Ngự (Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên hoàn, Bình bán, Tây mai, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ, Tẩu mã), Ngũ Đối thượng, Ngũ Đối hạ, Long đăng, Long ngâm, Tiểu khúc...; các bản nhạc thường dùng trong dàn Đại nhạc (Tam luân Cửu chuyển, Thái bình Cổ nhạc, Đăng đàn cung, Xàng xê, Kèn chiến, Phú lục, Tẩu mã, Bông, Mã vũ, Man, Đăng đàn đơn, Đăng đàn kép, Nam bằng, Du xuân, Cung ai) và một số bài bản khác.

Đặc biệt, Chính phủ Việt Nam đã có quyết định cho phép tiến hành tu bổ thích nghi, tái sử dụng nhà hát Duyệt Thị Đường và Minh Khiêm Đường để làm môi trường diễn xướng cho Nhã nhạc cung đình Huế.

Do bộ môn nghệ thuật này đã qua một thời gian dài chưa được bảo tồn, một số nghệ nhân lớn tuổi đã ra đi. Vì vậy, việc giữ gìn các giá trị văn hóa này là hết sức bức thiết.

Những cố gắng này đã đạt được những kết quả nhưng cũng còn rất khiêm tốn. Trước mắt còn nhiều việc cần phải làm: tiếp tục công tác sưu tầm, thống kê, nghiên cứu... tiến đến phục hồi rất nhiều phần còn lại của Nhã nhạc nhằm nêu bật giá trị của di sản này, tôn vinh các nghệ nhân cuối cùng đang nắm giữ những kiến thức quý giá về nó, nâng cao ý thức cộng đồng... để có thể lưu truyền di sản này mãi mãi cho các thế hệ mai sau.

2. Phương hướng hành động 5 năm (2002-2006):

Giai đoạn 2002-2004:

- Đẩy mạnh công tác khảo sát, tìm kiếm tài liệu liên quan đến Nhã nhạc. Thực tế cho thấy, các nguồn tài liệu này hiện nay phân tán ở nhiều nơi: ở các kho lưu trữ, các thư viện, các tủ sách tư nhân trong và ngoài nước. Do vậy, phải có kế hoạch hợp tác nhằm tìm kiếm để bổ sung.

- Tiến hành công tác điền dã, gặp gỡ trao đổi với những người hiểu biết, những nhân chứng lịch sử nhằm thiết lập cơ sở cụ thể, xác thực, vững chắc về những vấn đề liên quan đến Nhã nhạc.

- Tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị, tọa đàm nhằm lấy ý kiến của các nhà chuyên môn và các nghệ nhân để xây dựng các cơ sở dữ liệu khoa học đối với Nhã nhạc.

- Từng bước xây dựng phòng lưu trữ đặc thù về Nhã nhạc. Phòng lưu trữ này sẽ cất giữ toàn bộ các tài liệu cổ, tài liệu viết tay, băng ghi âm, băng ghi hình, ảnh tài liệu, ảnh hiện trạng... liên quan đến Nhã nhạc.

- Lập kế hoạch và chính sách trình lên các cấp có thẩm quyền thông qua các chế độ đãi ngộ và tôn vinh các nghệ nhân lớn tuổi để tranh thủ sự truyền nghề của các thế hệ già cho các thế hệ kế tiếp cả về kinh nghiệm, kiến thức, tư liệu. Động viên, khích lệ họ chuyển giao tích cực hơn nhằm góp phần nâng cao ý thức cộng đồng trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.

- Tổ chức đội ngũ nghiên cứu có chuyên môn về âm nhạc truyền thống, về văn hóa lịch sử nhằm thực hiện các đề tài nghiên cứu cho một chiến lược dài hạn về khôi phục Nhã nhạc.

- Đẩy mạnh công tác đào tạo về Nhã nhạc. Phối hợp tổ chức đào tạo và tái đào tạo bổ sung cho đội Nhã nhạc ở các đơn vị nghệ thuật truyền thống.

- Quảng bá và tuyên truyền về Nhã nhạc cho khách tham quan du lịch tại nhà hát Duyệt Thị Đường (Đại Nội) và Minh Khiêm Đường (lăng Tự Đức).

Giai đoạn 2005-2006:

- Phục hồi các lễ hội để tái tạo môi trường diễn xướng cho Nhã nhạc.

- Thành lập phòng trưng bày về Nhã nhạc. Tiến hành phục chế một số nhạc cụ được sử dụng trong Nhã nhạc.

- Tập trung các đề tài nghiên cứu để làm rõ giá trị của Nhã nhạc. Xây dựng biện pháp, giải pháp để thực thi có hiệu quả chương trình bảo tồn Nhã nhạc.

- Dàn dựng, phục hồi các tiết mục Nhã nhạc đã đầy đủ cứ liệu lịch sử.

- Tăng cường hợp tác, giao lưu văn hóa và quảng bá Nhã nhạc trong phạm vi quốc gia và quốc tế.

- Biên soạn và xuất bản các văn hóa phẩm về Nhã nhạc (tập gấp, sách nghiên cứu, dĩa CD, VCD...) để tuyên truyền về giá trị văn hóa truyền thống. Triển khai các địa điểm biểu diễn phục vụ công chúng và khách đến tham quan di tích tại những nơi là môi trường diễn xướng nguyên thủy của Nhã nhạc.

- Tranh thủ các nguồn kinh phí để đầu tư cho công tác đào tạo, sưu tầm...

Đặc biệt là tổ chức thực hiện tốt chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa Thông tin và UBND Tỉnh hoàn chỉnh Hồ sơ ứng cử quốc gia về Âm nhạc Cung đình Việt Nam - Nhã nhạc (triều Nguyễn) đệ trình UNESCO xin công nhận là Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

Trên đây chỉ là những phác thảo bước đầu cho một chương trình dài hạn về phục hồi Nhã nhạc, công việc này sẽ được triển khai bằng nhiều phương án cụ thể chi tiết và đòi hỏi tính khoa học cao.

T.C.N
(178/12-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang