Con đường thơ

14:19 03/11/2014

VŨ TRỌNG QUANG

I. HÀNH TRÌNH TẤT YẾU
Bước chân bắt đầu từ khởi điểm Octavio Paz “Giữa im lặng và tiếng nói, đó là thơ”. Vậy thì im lặng hay lên tiếng, có người nói thơ là tiếng nói, và có người cho vô ngôn là một giá trị.

Minh họa: Nhím

Khi còn bé tôi rất mê xem phim hoạt hình, từ chú chuột Mickey đến Bambi đến Bạch Tuyết và 7 Chú Lùn, mê tới độ sau này ước ao Việt Nam mình khoảng 20 năm nữa sẽ thực hiện được những bộ phim như vậy. Đến nay khi Bạch Tuyết hoạt hình tổ chức sinh nhật 50 năm, từ hoạt hình phẳng 2D “Vua Sư Tử”…v.v, di chuyển bay vào không gian 3D “Đi tìm Nemo”…, mình vẫn chưa chạy kịp bước đi của Bambi. Thôi thì thông cảm, kỹ thuật họ tiên tiến, xảo thuật họ linh động, chờ thêm 100 năm biết đâu mình sẽ bơi theo kịp chú cá nhỏ Nemo.

Con tôi hỏi “Xạo quá ba ơi! Cá cha của Nemo biết đọc chữ”. Không xạo đâu con, nó khêu gợi trí tưởng tượng của con đó.

Phải tưởng tượng, liên tưởng, bay bổng.

Phải di chuyển.

Thơ di chuyển như những bước chân, nếu gọi bước chân là hiện thực thì chiếc xe đạp là đôi chân trên hin thc (hay siêu thực), thời gian sẽ gắn cho xe thêm động cơ, không gian sẽ gắn cho bước chân động cơ cánh bay, bay vào và vượt qua khỏi tầng khí quyển. Nếu dừng lại có nghĩa là lùi lại, bước chân mở ra những con đường, từ đường mòn đến đại lộ, nhiều xa lộ giao nhau, từ mặt phẳng đến không gian. Khơi mở, đi và bay mãi. Thơ không dừng lại.

Thơ Mới (còn gọi là Thơ Tiền Chiến) bỏ lại sau những Đường Thi Cổ Điển, đi qua những ràng buộc luật lệ khắt khe. Đi như đôi hia bảy dặm, bay như Tôn Ngộ Không cân đẩu vân, rực rỡ vô cùng. “Tình già” của Phan Khôi, “Lời kỹ nữ” của Xuân Diệu, mấy bài thơ của TTKH …v.v. Ngày xưa những bài này mẹ tôi hay đọc cho nghe, hồi ấy nó thuộc hàng “Top Ten”, nhưng bây giờ rên rỉ như kiểu “Nếu biết rng tôi đã có chng. Tri ơi! Người y có bun không?” thì còn là gì nữa, nếu bắt chước con đường Thơ Mới đã đi qua, thì Thơ Mới sẽ buồn lắm, Thơ Mới sẽ cũ đi, như thế có nghĩa ta đắp mồ cho chính thi ca.

Trong thời kỳ này có cuộc hành trình của Xuân Thu Nhã Tập, nhóm này vẫn là dạng phơi mở, đi chưa hết và vẫn tiếp tục (có thể xem như gieo gợi cho dòng thơ hiện đại sau này).

Cuộc sống như một mũi tên lao tới. Có một thời tôi bị thôi thúc bởi những câu thơ Thanh Tâm Tuyền:

Vt mu thuc cui cùng xung dòng sông
mà hn mình phơi trên kè đá
chiu không xanh không tím không hng
nh
ng ng khói tàu mt l”.

Mỗi lúc mỗi thời điểm phải khác đi, Nguyễn Trãi vĩ đại, Hồ Xuân Hương vĩ đại, Nguyễn Du vĩ đại. Nhưng không vì thế mà rập khuôn tiếp bước. Sau Đoạn Trường Tân Thanh có nhiều hậu Đoạn Trường Tân Thanh, nhưng như mọi người đều biết tất cả bay theo mây và giá trị để lại vô thanh.

Đến ngã tư, dừng lại một chút, thấy một hành khất thổi còi điều khiển xe cộ qua lại; thi sĩ Bùi Giáng:

Con chim thì ta biết nó bay
con cá thì ta biết nó li
th
ng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ
nhưng thơ là gì
thì đó là điu
ta kh
ông biết”.

Vậy thì càng phải đi tiếp, mênh mông, bát ngát quá. Tìm thơ ở đâu?

Con ruồi sống vài ngày, con rùa sống một hai trăm năm, thời gian nằm trong một hệ quy chiếu, tất cả chỉ là một sát na, tất cả chỉ là chớp mắt. Kim Tự Tháp có mấy ngàn năm, rồi cũng sẽ tan biến. Mặt trời sẽ tắt, vũ trụ rồi sẽ được hình thành từ sự mất đi của vũ trụ khác. Tôi thích nghệ thuật cận đại: Sắp Đặt (Installation) và Trình Diễn (Performance), được tạo dựng tồn tại khoảnh khắc và tự xóa bỏ.

Từ hôm qua đến hôm nay, cổ điển đến hiện đại, chạm vào hôm sau bức tường Max Jacob “Thơ hin đại vượt qua mi li gii thích”, chạm vào mênh mông bức tường Archibald MacLeish “Mt bài thơ không nên có nghĩa. Nhưng là thơ”.

Nghệ thuật nói chung, thơ nói riêng: Thi ca là bước vận động biện chứng tiến hóa đi tới và sáng tạo vượt qua. Nhà thơ là kẻ thất bại trên hành trình từ khởi điểm này đến khởi điểm khác, là kẻ ý thức về đỉnh cao chứ không thể chạm tới đỉnh cao.

II. HIỆN TRẠNG THƠ VÀ PHI THƠ

Và thơ đương đại Việt Nam? Một tra vấn về số mạng sứ mạng của thơ.

Có một số nhiều đôi mắt trăm tuổi nhìn thơ hiện đại khai phá và cách tân qua kính lúp không thiện cảm, nhìn thể nghiệm bằng sự dị ứng và chối bỏ. Do vậy từ lâu thơ chạm phải những rào cản lớn, đó là các biên tập viên dè dặt của nhà xuất bản, những người chọn thơ cho báo chí và tạp chí; dĩ nhiên là họ thực hiện theo sự “nhắc nhở” ở trên: Thơ phải có tiêu chí, phải được định hướng, phải xác định rõ ràng. Đối với thơ không có cái gọi xác định, mà nó ám ảnh tình trạng tâm thức phi xác định. Thơ là giấc mơ đời sống tâm linh, không chịu tầng áp bức nào. Thơ ở vị trí của mức thủy ngân trong nhiệt kế, tự nhiên đo lường ý thức tâm hồn nóng lạnh buồn vui của bản ngã, không gì có thể đè mức dao động ấy. Tiếc thay cũng có những người thỏa hiệp, tự biên tập làm cũ chính mình, nép mình vào trong cánh cửa để chữ được phơi bày ra, vì vậy không khó hiểu khi thơ phi thơ được sản sinh vô tính hàng loạt. Trong guồng máy văn chương thi ca quán tính, cũng có một số khuôn mặt đam mê cái mới đam mê cái khác nhưng cũng tự lệ thuộc quanh quẩn trong vòng tròn đã được vẽ sẵn. Bi kịch ở chỗ thơ chống lại thơ ấy vẫn còn tiếp tục và trở thành bi kịch khác. Có người nói nếu anh giỏi thì thơ phải biết lách, trời ơi! Thơ phải hèn vậy sao?

Nhưng… Thơ chân chính chân thực, Thơ viết Hoa, thơ đích thực không cam chịu cư trú trong bốn bức tường, thơ là hơi thở nên cần nơi thông thoáng đầy đủ dưỡng khí. Cuộc cách mạng viễn thông tạo ra lực nam châm thu hút dòng thơ nỗ lực tìm kiếm, tác giả thơ có điều kiện bày tỏ trọn vẹn, sự thể hiện thể nghiệm được chú ý, sự trung thực được đồng tình; các websites các blogs là nơi chốn được thơ tìm đến (Tất nhiên ở đó vẫn có rác, tự do mà, rác thì môi trường nào cũng có); cuộc cách mạng viễn thông đưa thế giới nằm trong lòng bàn tay, biến dàn vi tính trở thành một nhà xuất bản nằm trong lòng bàn tay, sách in ra mỹ thuật không thua gì ở những nhà in “chính qui”. Những tác giả xuất hiện ở nhà in mini này nhìn thấy “đứa con” được mang khuôn mặt của chính mình mà giá trị là sự hài lòng.

Sự gì tốt, sự ấy hợp với quy luật, chiếm được ưu thế và nhiều ưa chuộng, con đường phát triển không lùi lại của thơ là một xu thế trào dâng trào lưu đi tới chứ không phải những mode thời trang thoáng qua.

Một câu nói rất xưa nhưng luôn đúng “Thời gian là thước đo”. Thi ca nói riêng văn chương nói chung là những mùa xuân, nhưng là mùa xuân đi tới. Đi tới cái khác.

V.T.Q  
(SDB14/09-14)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.

  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.

  • PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.