Con búp bê diệu kỳ

08:04 28/04/2010
Paul William Gallico (1897-1976) là một nhà văn, phóng viên thể thao nổi tiếng của Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyện, phim truyền hình, có tác phẩm đã đạt giải Oscar. Cha ông người Ý, mẹ người Áo, bản thân ông đã nhiều năm sống ở châu Âu. Là người đa tài và viết khỏe, ông có hàng chục đầu sách: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim truyền hình, thể thao. Những tác phẩm nổi tiếng của Gallico là: Ngỗng tuyết, Tình yêu của bảy con búp bê, Cuộc phiên lưu Poseidon.

Nhà văn Paul Gallico - Ảnh: paulgallico.info

PAUL WILLIAM GALLICO


Con búp bê diệu kỳ


C
âu chuyện tôi sắp kể diễn ra cách đây ba năm, và tất cả xảy ra vì một con búp bê. Tôi là một bác sĩ, tôi tên là Stephan Amony. Nhà và nơi tôi làm việc là thành phố Luân Đôn, gần sông Thêm.

Tôi còn nhớ rõ buổi sáng tháng Mười năm ấy. Từ cửa sổ, tôi thấy ánh nắng ban mai đang chiếu sáng trên dòng sông. Tôi ra khỏi nhà để đi mua tờ Thời báo, công việc tôi vẫn làm hàng sáng. Có một cửa hàng hoa ở ngay góc phố tôi sống. Đi đến sát góc phố, tôi có thể ngắm những bông hoa thật rực rỡ. Tôi rẽ vào đường Abbey.

Vài phút sau tôi đã đến trước cửa hàng để mua báo. Trước khi vào trong, tôi nhìn qua tủ kính và tôi sực nhớ rằng tuần tới là sinh nhật đứa cháu gái.

Như thường lệ, cửa hàng có rất nhiều đồ chơi, bút, giấy. Một vài thứ trong đó dường như đã ở trong tủ kính nhiều năm. Khi trông thấy một con búp bê, tôi quyết định đó sẽ là món quà sinh nhật mà cháu tôi thích nhất. Con búp bê gần như bị che khuất ở góc tủ. Nó được làm bằng vải, nhưng chính khuôn mặt đã gây cho tôi sự chú ý đặc biệt. Cho dù được sơn màu vẽ, con búp bê trông đáng yêu, hiền từ, đôi mắt đượm buồn. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho nó phải ở trong cái tủ kính ken chặt hàng. Tôi quyết định nhìn kỹ hơn.

Cửa hiệu của một người đàn ông tên là Jim Carrter. Khi tôi đi vào, ông ta mỉm cười. “Xin chào bác sĩ, vẫn một tờ Thời báo chứ?” “Vâng, và tôi muốn một món quà cho đứa cháu gái. Tôi muốn xem con búp bê trong tủ của ông, con búp bê ở đằng góc tủ ấy, làm bằng vải”. Ông chủ của hàng có vẻ ngạc nhiên. “Con búp bê à, nó đặc biệt nhưng đắt đấy bác sĩ à”.

Jim lấy con búp bê khỏi tủ kính, đưa cho tôi. Khi cầm con búp bê, tôi ngạc nhiên đến nỗi suýt đánh rơi. Nó rất đẹp và giống như thật. Trang phục của búp bê được may bằng tay, và khuôn mặt, mặc dù tôi không nhìn rõ lắm, được vẽ thủ công bởi một nghệ sĩ. Nó thật đáng yêu. Bất kỳ ai làm ra con búp bê này chắc chắn đã thực hiện với sự yêu quý và cẩn trọng. Nó thật dịu dàng, và đó là cảm giác đầu tiên khi tôi nhìn thấy khuôn mặt búp bê.

Tôi đặt con búp bê xuống nhẹ nhàng. “Con búp bê này giá bao nhiêu tiền, ông Jim?”, tôi hỏi. Tôi khi đó chắc phải trông rất ngỡ ngàng bởi vì Jim bảo tôi. “Tôi đã nói với bác sĩ rằng nó rất đắt. Ở Luân Đôn người ta bán với giá hai mươi bảng, nhưng ở đây tôi lấy ông mười một bảng thôi”. “Ai đã làm ra nó vậy?”, tôi hỏi. Tôi tò mò muốn biết người đã làm ra những con búp bê xinh đẹp này. “Một người đàn bà ở phố Harley, bà ta sống ở đây nhiều năm rồi, thỉnh thoảng bà ta đến đây và đó là cách tôi có những con búp bê để bán”. Tôi hỏi tiếp. “Thế bà ta tên gì, trông như thế nào?” “Tôi cũng không chắc, đại loại như là Callamy. Một người đàn bà cao, tóc đỏ, mặc quần áo đắt tiền. Bà ta trông khó gần và rất ít nói chuyện khi đến đây. Jim ngừng một lát, tôi chưa bao giờ thấy bà ta cười”.

Tôi không thể hiểu được điều này, làm sao một người đàn bà như thế lại làm ra những con búp bê xinh đẹp đến vậy. Khi đếm tiền, tôi cảm thấy mình thật ngớ ngẩn. Mặc dù con búp bê để làm quà tặng cho đứa cháu gái, nhưng lý do thật sự để tôi mua nó: Đó là tôi không thể để con búp bê xinh đẹp như vậy trong một cửa hàng đầy bụi.

Tôi mang búp bê về nhà, đặt trong căn phòng ngủ bé nhỏ của mình, và ở trong căn phòng này, dường như nó càng đáng yêu hơn. Tôi cho búp bê vào một cái hộp bằng giấy màu nâu. Buổi chiều hôm đó, tôi mang đến bưu điện, gửi cho cháu gái.

Tôi nghĩ rằng tôi sẽ quên con búp bê, nhưng không được. Tôi không thể không nghĩ về nó. Làm sao một con búp bê xinh đẹp như vậy lại được làm bởi bàn tay của người phụ nữ như Jim nói được chứ! Trong khi tôi đang cố tìm ra người phụ nữ đó là ai, thì có rất nhiều trẻ em bị ốm, đặc biệt trong thời tiết giá lạnh và ẩm ướt. Tôi đã bận rộn vài tuần liền. Tôi đã quên bẵng cả người đàn bà và con búp bê.

Một ngày kia, vào mấy tuần sau đó, tôi có điện thoại, giọng một phụ nữ. “Đó có phải đó là bác sĩ Amony không?” “Vâng, tôi đây”. “Ông có thường xuyên đi khám tư cho bệnh nhân không?” “Có, thỉnh thoảng”, tôi đáp. “Mất bao nhiêu tiền một lần?”. Giọng điệu người đàn bà không mấy thiện cảm. Bà ta dường như quan tâm đến tiền nhiều hơn tới người đang ốm. Tôi trả lời. “Một lần khám bệnh mất năm bảng, nhưng nếu bà thực sự không thể trả tiền thì tôi cũng không đòi hỏi”. “Được rồi”, người đàn bà nói. “Tôi có thể trả ông năm bảng. Tôi tên là Rose Callamit, nhà tôi ở cạnh hiệu bánh trên đường Harley, phòng của tôi trên tầng hai”. “Tôi sẽ đến ngay”, tôi đáp.

Tôi đến căn nhà đó sau mười phút. Tôi bước lên bậc cầu thang chật hẹp, bụi bặm và tối mò. Khi đi hết cầu thang, cửa đã mở sẵn, một giọng nói khô cứng vọng ra. “Bác sĩ Amony phải không, mời vào. Tôi là Rose Callamit đây”. Trước mắt tôi là một người đàn bà với mái tóc đỏ kì dị, đôi mắt đen, môi bóng và sáng đỏ. Bà ta khoảng bốn lăm, năm mươi tuổi gì đó.

Tôi thất vọng khi nhìn thấy người đàn bà, và càng thất vọng hơn khi bước vào gian ngoài. Đồ đạc đều là những thứ xuềnh xoàng. Trên chạn bát ở góc nhà, có một vài cái chai thủy tinh nhỏ. Không có chút hơi ấm nào, căn phòng lạnh lẽo, tồi tàn. Và ở phía sau cửa, tôi nhìn thấy mấy con búp bê. Chúng được treo trên tường, một vài con khác bị vất cẩu thả trên giường. Mỗi con búp bê có một vẻ khác nhau nhưng đều có một đặc điểm chung là dịu dàng, đáng yêu, giống như con búp bê tôi đã mua cho cháu gái mình. Dường như người đàn bà kia không thể làm ra những con búp bê như thế này.

“Ông là một tay bác sĩ quá trẻ”, bà Rose nói. Tôi đáp lại gay gắt bởi vì thất vọng khi thấy những con búp bê ở trong nhà người đàn bà. “Tôi già hơn vẻ bề ngoài. Nhưng nếu bà nghĩ tôi trẻ quá, tôi sẽ đi ngay”. Bà ta cười: “Đừng giận, bác sĩ, nhưng trông ông rất đẹp trai”. “Tôi là bác sĩ nên không có nhiều thì giờ để lãng phí, ở đây ai bị ốm”, tôi hỏi. “Không phải tôi mà là cháu gái tôi. Nó đang ở phòng trong, tôi sẽ đưa ông vào đó”. Trước khi bước vào, tôi thấy cần phải biết về những con búp bê, tôi hỏi. “Bà làm ra những con búp bê này à?”. “Đúng, nhưng sao vậy?”. Vì một vài nguyên nhân, tôi tự nhiên cảm thấy rất buồn. “Tôi đã mua một con búp bê như thế này cho cháu gái tôi”. Bà ta cười. “Tôi đoán, ông chắc phải trả rất nhiều tiền.”

Người đàn bà dẫn tôi qua hành lang nhỏ phía trong. Khi sắp mở cửa, bà ta kêu to. “Mary, bác sĩ đã đến”. Sau đó bà ta mở rộng cửa hơn để tôi vào. Bà ta cố ý nói to để cô gái có thể nghe thấy. “Đừng ngạc nhiên nhé bác sĩ, chân nó bị khoèo”. Cô gái - Mary, đang ngồi trên ghế cạnh cửa sổ, khi nghe thấy những lời như vậy, sự đau khổ cùng cực hiện rõ trên khuôn mặt. Một lần nữa, tôi lại giận dữ người đàn bà ghê gớm đó. Những lời của bà ta khiến cô gái phải nghĩ về cái chân của mình.

Mary trông chưa tới hai lăm tuổi nhưng khuôn mặt rất xanh xao, đôi mắt to đen. Dường như linh hồn cô đang chết dần, cô rất yếu. Từ giây phút đầu tiên, tôi đã xúc động bởi sự dịu dàng trên khuôn mặt buồn của Mary. Tôi vẫn còn nhớ rõ: thân hình gầy gò, tội nghiệp, mái tóc khô mất hết sự sống. Nhưng tôi đã thấy một thứ khiến tôi rạng rỡ. Xung quanh Mary là những chiếc bàn nhỏ, một chiếc để sơn màu và bàn chổi; những cái khác để kim, chỉ khâu, vải nhiều màu, nhiều kích cỡ khác nhau. Đó là những thứ cần thiết để làm ra những con búp bê.

Tôi có thể nhận ra sự ốm yếu của Mary không phải do cái chân bị tật. Nhưng cái chân của Mary thu hút sự chú ý của tôi. Đó là cái cách cô ngồi. Nếu như giống như những gì tôi nghĩ, khi được điều trị, cái chân có thể kéo thẳng ra được. “Cô có thể đi được không, Mary?”. Tôi hỏi. “Có”, cô nhẹ nhàng. “Hãy đi đến chỗ tôi”. “Không, tôi không thể, đừng bắt tôi”. Tôi không muốn làm Mary đau, nhưng tôi cần phải biết bệnh tình cho chắc chắn. “Tôi xin lỗi, nhưng Mary à, hãy cố lên”.

Mary thận trọng đứng dậy, lê từng bước đến chỗ tôi. Tôi nhìn rất kỹ chân trái của Mary, tôi chắc là mình đã đúng. “ Tốt rồi”, tôi mỉm cười hài lòng. Tôi đưa tay ra giúp cô. Khi Mary nhìn lên, một lần nữa tôi chứng kiến sự tuyệt vọng, đau khổ mà cô đang đang trải qua. Cô dường như muốn khóc oà trong sự câm lặng khi được tôi giúp. Tay cô chới với tới tôi, nhưng rồi lại thõng xuống. Thế là hết hi vọng. “Cô bị như thế nào bao lâu rồi, Mary?” Bà Rose cướp lời. “Mary bị khoèo chân gần mười năm rồi, nhưng tôi mời ông đến đây không phải vì việc ấy. Mary đang bị ốm. Tôi muốn biết có vấn đề gì đối với nó”. Đúng vậy, Mary đang bị ốm, thậm chí cô ấy đang chết dần. Tôi nhận ra điều đó ngay từ khi nhìn thấy Mary.

Tôi hy vọng bà Rose sẽ rời khỏi phòng, nhưng bà ta không đi. Bà ta cười to. “Tôi sẽ ở đây bác sĩ. Ông phải tìm ra có vấn đề gì với nó và nói cho tôi biết”. Khám cho Mary xong, tôi và bà Rose đi ra phòng ngoài. Tôi bảo bà Rose. “Bà có biết rằng cái chân của Mary có thể kéo thẳng lại được. Nếu được điều trị, cô ấy có thể đi được. “Thôi đủ rồi”, bà Rose quát vào mặt tôi những từ khiến tôi nổi khùng. “Nếu ông dám nói với Mary về điều đó. Nó đã được khám bởi những người biết chuyên môn. Tôi sẽ không để một vài tay trẻ tuổi ngu ngốc gợi cho nó những hi vọng. Nếu ông dám làm việc ấy, thì đừng bao giờ bước đến đây nữa. Tôi chỉ muốn biết có vấn đề gì xảy ra với Mary. Nó không ăn, cũng không ngủ, và không làm việc tốt được. Ông đã tìm ra nguyên nhân gì chưa?”.

“Tôi vẫn chưa biết có điều gì xảy ra với Mary”, tôi trả lời. “Nhưng tôi biết cô ấy đang dần dần bị tàn phá bởi một điều gì đó. Tôi sẽ sớm khám lại cho cô ấy lần nữa và đưa cho cô ấy một ít thuốc. Nó sẽ giúp cô ấy khỏe hơn. Tôi sẽ quay lại trong một vài ngày tới.” “Ông không được nói gì về việc chữa cái chân cho Mary, ông hiểu không? Nếu ông còn tiếp tục như vậy, tôi sẽ gọi bác sĩ khác”. “Tôi đồng ý”, tôi đáp. Tôi buộc phải nói như vậy để có cơ hội đến thăm Mary lần nữa và có lẽ khi nào cô ấy khỏe hơn, tôi sẽ nói cho Mary biết về cái chân của cô ấy. Tôi sẽ…

Khi cầm túi của mình để chuẩn bị rời đi, tôi hỏi. “Tôi nghĩ bà đã nói rằng bà đã làm ra những con búp bê này?”. “ Tôi làm”, bà ta bộc lộ sự khó chịu. “ Tôi đã vẽ chúng, sau đó để Mary làm. Điều ấy giúp nó không nghĩ về cái chân của mình nữa, và sự thật là nó sẽ không bao giờ kết hôn hay có con cái”.

Minh họa: ĐẶNG MẬU TỰU


Tôi đi ra ngoài trong một ngày nắng tháng Mười quang đãng, tôi biết bà Rose đã nói dối. Tôi đã tìm ra con người tuyệt vời làm ra những con búp bê kỳ diệu kia. Hạnh phúc nghĩ về điều đó nhưng tôi lo lắng cho Mary, trừ khi tôi tìm ra có điều gì đang xảy ra với cô ấy, nếu không Mary sẽ sớm từ giã cuộc đời.

Sau vài lần đến thăm Mary, tôi đã biết được nhiều hơn. Tên của cô là Mary Nolan, khi mười lăm tuổi cô bị tai nạn xe hơi. Cả bố và mẹ cô đều chết, Mary bị thương nặng. Chính tai nạn đó khiến chân cô bị khoèo. Tòa án yêu cầu bà Rose chăm sóc Mary vì không có ai chăm sóc được cô nữa. Bà Rose nhận chăm sóc cô, bởi nghĩ rằng bố Mary rất giàu. Nhưng khi bà ta biết rằng cô chỉ có một món tiền nhỏ, bà Rose đã đối xử độc ác với Mary. Bà làm cho cô đau khổ càng nhiều càng tốt. Bà ta không bao giờ để cho cô quên đi cái chân của mình. Bà Rose dường như muốn nói với Mary rằng. “Sẽ không người đàn ông nào yêu mày. Mày sẽ không bao giờ có chồng và có con, không có người đàn ông nào muốn có một người vợ bị khoèo chân.”

Nhiều năm trôi qua. Mary dần dần tin tưởng vào bà cô của mình. Cô ở với bà Rose và làm những điều bà ta yêu cầu. Mary không có lí do gì để chống lại bà cô của mình và dời đi nơi khác. Cô sống một cuộc đời vô vọng và bất hạnh.

Khi Mary bắt đầu làm những con búp bê, bà Rose thấy chúng rất đáng yêu, và biết rằng chúng có thể bán được nhiều tiền. Sau khi bán được vài con, bà Rose bắt Mary làm từ sáng đến đêm khuya, trong nhiều năm liền và bây giờ Mary bị ốm. Dù không yêu quý gì Mary nhưng bà Rose đủ khôn ngoan để biết rằng nếu không có Mary, bà ta sẽ không có tiền.

Khi tiếp tục tìm hiểu nguyên nhân đang giết chết Mary, tôi phát hiện ra rằng Mary rất sợ bà cô của mình, nhưng đó không phải là tất cả. Và tôi cũng không thể tìm hiểu hơn gì từ Mary, vì bà Rose lúc nào cũng ở bên cạnh chúng tôi. Tôi cảm thấy Mary rất khó nói bất kì điều gì khi bà Rose ở trong phòng. Tôi chưa nói cho Mary biết rằng tôi có thể chữa được cái chân cho cô ấy. Điều quan trọng là tôi cần khám phá ra tại sao Mary không muốn sống nữa.

Mười ngày tiếp theo, Mary đã khá hơn. Tôi yêu cầu cô ấy không làm búp bê nữa. Tôi mua cho cô dăm quyển sách và vài thỏi sô cô la. Lần sau, khi tôi đến thăm, Mary đã mỉm cười giống như lần đầu tiên tôi gặp cô. “Đã tốt hơn”, tôi vui vẻ. “Cô sẽ khá hơn nhiều nếu không phải làm những con búp bê trong mười ngày tới. Tôi muốn cô nghỉ ngơi, ngủ và đọc sách, sau đó sẽ tính tiếp.” Nhưng tôi biết bà Rose không hài lòng khi nghe những điều đó.

Lần sau, khi tôi đến thăm Mary, bà ta đã đợi sẵn. “Ông không cần phải đến đây nữa, bác sĩ Amony ạ”. “Nhưng còn Mary”, tôi hỏi. “ Mary đã khỏe, xin tạm biệt bác sĩ”. Mắt tôi chạm ngay phải những cái hộp đặt ở góc phòng, vài ba con búp bê còn mới nằm trên đó. Khuôn mặt chúng vẫn đáng yêu, nhưng đối với tôi, chúng chứa đầy sự chết chóc. Bỗng nhiên tôi lo sợ cho Mary. Tôi biết bà Rose đang nói dối. Tôi muốn đẩy bà ta để chạy vào thăm Mary. Nhưng tôi là một bác sĩ, và khi người ta không cần nữa thì nhiệm vụ của tôi là phải ra đi. Tôi chưa biết được chuyện gì xảy ra với Mary, và tôi đoán bà Rose có thể tìm một bác sĩ khác. Rất buồn, tôi rời đi và những ngày sau đó, tôi không thể nào quên được Mary. Tôi lúc nào cũng phiền muộn nghĩ về cô ấy.

Chẳng bao lâu, chính tôi cũng bị ốm, ban đầu chỉ sơ sơ, nhưng càng ngày càng rõ ràng. Tôi mời một anh bạn bác sĩ đến khám, anh ta bảo cơ thể tôi không có gì bất thường. Anh nói, chắc tôi làm việc quá sức. Nhưng tôi biết đó không phải là nguyên nhân. Tôi càng ngày càng tệ hơn, tôi không muốn ăn và bị sụt cân, vô cùng mệt mỏi. Ban đêm, tôi ngủ không yên và thỉnh thoảng mơ thấy Mary gọi cầu cứu, trong khi bà Rose vẫn giữ chặt cô ấy trong cánh tay gớm ghiếc của mình. Tôi xanh xao và gầy đi nhiều. Tôi không thể quên rằng mình đã không giúp được gì cho Mary. Mary muốn được tôi giúp, nhưng tôi đã không làm được gì cả.

Một tối, tôi mệt mỏi và không sao ngủ được. Tôi đi đi lại lại trong phòng, nghĩ về chính mình và căn bệnh của mình. Dường như tôi bị căn bệnh giống Mary. Đột nhiên, tôi phát hiện ra nguyên nhân: Tôi đã phải lòng Mary mất rồi. Tôi bị ốm, vì tôi không thể nhìn thấy và chăm sóc cô ấy. Bây giờ thì tôi biết rằng vì sao Mary đang chết dần. Cô ấy đang chết từng ngày vì không có ai yêu cô ấy. Không ai trên thế giới này cho cô hy vọng trong những năm sắp tới. Cha mẹ cô đều đã mất, bà Rose giữ cô chỉ vì bà kiếm được tiền nhờ bán những con búp bê. Mary không có bạn bè, và tồi tệ hơn, vì cái chân của mình, cô thấy mình thật xấu xí. Cuộc đời cô trống rỗng, cô không có gì cả, ngoại trừ những con búp bê. Tôi biết rằng tôi phải đến thăm Mary, tôi phải nói với cô ấy vài phút. Nếu không, tôi sẽ mất Mary vĩnh viễn.

Sáng hôm ấy, tôi gọi điện đến cửa hàng ông Jim Carter: “Tôi là bác sĩ Amony đây. Ông có thể làm ơn giúp tôi một việc được không?” “Bất cứ điều gì. Năm ngoái, bác sĩ đã cứu mạng con trai tôi. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông yêu cầu”. “Cảm ơn Jim. Ông có nhớ bà Rose Callamit, người bán búp bê cho ông không? Nếu lần sau bà ta đến đây, tôi muốn ông gọi điện cho tôi và sau đó ông cố giữ bà ta ở đó để nói chuyện. Tôi cần khoảng hai mươi phút, được chứ. Tôi sẽ biết ơn ông suốt đời”.

Tôi sợ rằng khi tôi ra ngoài thì Jim gọi đến, nên mỗi buổi tối tôi thường lướt qua cửa hàng, nhưng Jim chỉ bắt tay tôi và nói chưa có tin tức gì. Một ngày kia, vào lúc năm giờ chiều, chuông điện thoại reo. Điện thoại của Jim. Ông ta chỉ nói một câu. “Ông có thể đi được rồi đấy”.

Tôi mất hai đến ba phút chạy đến nhà Mary. Khi lên cầu thang, tôi hy vọng mình có thể vào được nhà. Thật may, cửa không khóa. Bà Rose nghĩ rằng sẽ quay về trong vài phút.

Mary rất gầy ốm yếu, cô vẫn bị bao quanh bởi những bút sơn và vải may. Dường như Mary muốn làm một con búp bê cuối cùng trước khi chết. Mary ngẩng đầu lên khi tôi bước vào, mắt mở to vì ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi. Cô tưởng tôi là bà Rose. Cô gọi tên tôi, không phải “Bác sĩ Amony” mà là “Anh Stephan!” “Mary”, tôi kêu lên. “Ơn chúa, anh đã đến kịp. Anh đến đây để giúp em, anh biết vì sao em ốm rồi”. “Bây giờ điều ấy có còn quan trọng nữa đâu,” Mary nói thật khẽ. “Vẫn còn kịp mà, anh biết được bí mật của em, anh biết cách làm cho em khỏe mạnh, nhưng em phải nghe anh nói”. Mary nhắm mắt lại. “Thôi. Hãy để mặc em, hãy để em vĩnh biệt. Em không muốn biết nữa. Mọi việc sẽ sớm kết thúc thôi mà”.

Tôi ngồi xuống, cầm lấy tay Mary. “Mary, hãy nghe anh. Mỗi người đều có một cái kho tình yêu để cho đi suốt cuộc đời mình. Nhà kho được xây từ khi họ còn là trẻ con. Và họ nhận được tình yêu của gia đình khi họ lớn hơn. Khi họ lớn hơn nữa, tình yêu được trao tặng đi, nhà kho lại được đổ đầy những gì tốt đẹp, hạnh phúc, niềm vui và hy vọng. Đó là cách mà bao giờ trong kho cũng có một chút gì còn lại. Nhưng kho tình yêu của em thì hoàn toàn trống rỗng. Đến tận bây giờ, em cũng không có gì cả”.

Tôi không chắc Mary có nghe tôi nói hay không, nhưng tôi rất muốn cô ấy sống. Tôi tiếp tục. “Chính bà cô của em đã gây ra điều này, bà ấy đã mang đi tất cả hi vọng về tình yêu và hạnh phúc của em.” Tôi ngừng một chút. “Và điều tồi tệ hơn bà ấy đã lấy cả đi những đứa con của em”. Tôi thì thầm những từ cuối cùng, những điều tôi bắt buộc phải nói ra.

Tôi nhìn Mary. Tôi đã giết cô ấy? Không, tôi rất yêu Mary. Tôi cảm thấy bàn tay nhỏ bé của Mary đang nằm trong bàn tay tôi và Mary từ từ mở mắt. Mary dường như vui hơn khi nghe những điều tôi nói. Điều đó làm cho tôi hy vọng và tôi sẽ cố làm cho Mary hiểu.

 “Đúng rồi, những con búp bê chính là con của em. Khi em nghĩ rằng em mất cơ hội để yêu và làm mẹ, em đã làm những con búp bê kì diệu này. Em đã gửi gắm tình yêu của em vào trong đó. Em làm chúng với tất cả sự dịu dàng và cẩn trọng, em yêu chúng như thể đó là những đứa con của chính em. Và sau đó những đứa con của em bị đưa đi mà em không nhận lại gì cả. Em tiếp tục sử dụng cạn kiệt cái kho tình yêu của mình, đến tận khi linh hồn em cũng rời bỏ em luôn. Con người ta có thể chết khi không còn chút tình yêu nào trong mình.” Tôi ngừng nói và Mary bắt đầu động cựa. Cô ấy dường như hiểu những gì tôi đang nói. “Nhưng em sẽ không chết, tôi gào lên, vì anh yêu em. Em có thấy anh đang nói gì không, Mary? Anh yêu em và không thể sống thiếu em.” “Yêu em ư?” Mary thì thầm, nhưng em có cái chân bị tật, làm sao anh có thể yêu em được chứ?” “Cái đó không quan trọng. Anh vẫn yêu em’’, tôi thầm thì. “Nhưng bà Rose đã nói dối em. Cái chân của em có thể kéo thẳng được. Trong vòng một năm, em có thể đi lại bình thường như những cô gái khác”. Tôi nhìn Mary. Tôi thấy giọt nước mắt hạnh phúc trong mắt em. Mary mỉm cười với tôi trong sự tin tưởng hoàn toàn, em vòng tay ôm lấy tôi. Tôi đón Mary trong vòng tay của mình. Em nhẹ quá, nhẹ như một con chim vậy. Mary giữ chặt lấy tôi khi tôi choàng áo khoác giữ ấm cho cô ấy. Sau đó tôi đưa Mary ra khỏi phòng.

Đột nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng đóng sầm cửa và tiếng bước chân đang chạy. Cửa phòng Mary bật mở, bà Rose Callamit bước vào, giận dữ. Tôi cảm nhận được sự run rẩy sợ hãi của Mary. Em giấu mặt sau gáy tôi.

Nhưng bà Rose đã quá muộn. Bà ta không thể làm được gì nữa và bà ta biết điều đó. Không nói một lời, tôi đi vượt qua bà ta và giữ Mary sát cạnh mình. Tôi ra cửa trước, xuống cầu thang và đi ra phố. Bên ngoài mặt trời vẫn chiếu sáng trên con phố bụi bặm, và lũ trẻ vẫn chơi đùa huyên náo khi tôi đưa Mary về nhà.

Đã ba năm trôi qua. Và khi tôi đang viết những dòng này, Mary đang chơi đùa với đứa con trai đầu lòng của chúng tôi. Đứa thứ hai sẽ được sinh vào vài tuần tới. Mary không còn làm búp bê nữa, cô ấy không cần phải làm. Còn tôi, vẫn lặng thầm cảm ơn chúa, cái lần đầu tiên tôi nhìn thấy con búp bê và phải lòng nó. Con búp bê diệu kì trong tủ kính của hàng nhà Jim Carter.

UÔNG TRIỀU dịch
(253/03-10)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.

  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.