Cõi lòng người lính

16:38 18/08/2008
YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:                “Những lo toan năm tháng đời thường                Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

Những người sống được chăng hay chớ sống, nước chảy bèo trôi không thể có được tâm trạng dằn vặt cho “Khát vọng” của mình đến vậy. Tôi gấp sách lại; đoán xem đường đi của tác giả trong tập thơ này. Anh vốn là một người đã có ít thơ đăng trên tạp chí Sông Hương của Huế chúng tôi. Nhưng chưa có một câu tâm trạng nào viết thành thơ hay thế.
Mở sách đọc tiếp, bài “Cao thấp”, vẫn tâm trạng thăm thẳm ấy:
            “Bây giờ
            Chúng mình lớn lên
            Những trang đời
            Up mở..
Những đồng tiền
Sâp ngửa
Đỏ đen...”
Tôi có cảm giác bão tố đang cuồn cuộn trong Kiều Anh Hương.
Đến bài thứ ba “Tặng em gái tên Ngọc Hà”
            “Bài thơ nào viết cho mẹ và em
            Lời chân thật bỗng trở thành xa lạ
            Cuộc sống cứ ù à ù ập...”
Lắng lại phút chốc, tôi bỗng nhận ra đây đúng là con người cần thiết của cuộc đời này, của hôm nay, của cuộc sống đầy biến động đang vây quanh chúng ta từng ngày. Người không có trách nhiệm với cuộc sống có kẻ thì thở than, có kẻ thì quay mặt, có kẻ phát khùng chửi bới, cũng có cả kẻ bi quan, yếm thế nữa. Nhưng Kiều Anh Hương dám đối mặt. Đối mặt bằng chính thơ của mình.
Khi biết Kiều Anh Hương vốn là người lính trận mạc đã đánh Mỹ ở A Lưới, Tà Cơn, Động Tranh và ngay cả ở Huế nữa thì tôi yên lòng. Chỉ có người lính thực thụ, đã dám sống xả thân, sống cho một khát vọng, bây giờ đứng trước “đỏ đen” mới vật vã mình đến vậy.
Tôi gỡ rối bằng cách lần tìm đầu mối của Kiều Anh Hương. Rất may tôi đã gặp.
Anh đã giải thích cái lẽ cầm súng của mình:
            “Tháng giêng tháng hai
            Cái mủng rách mẹ mòn tay
            Qua nhà người mượn vay cầm cố
            Em đói lăn khóc lả trên nôi
            Cha thì lo ngược rừng
            Kiếm củi kịp về chợ chiều đổi sắn”
Sự cơ cực là điểm xuất phát vùng lên của dân tộc này. Phải thấm nỗi đau, nỗi nhục hai triệu rưỡi người chết đói năm 1945 mới hiểu nỗi khát khao “Độc lập”. Thế hệ đàn anh của chúng tôi cũng lên đường cùng một cảnh ngộ: “Quê hương anh nước mặn đồng chua, làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá” chỉ có cách giải thích ấy mới hiểu cội nguồn được cái lẽ: “Kẻ thù buộc ta ôm cây súng” vì “ta yêu sao làng quê non nước này”. Cái quê hương của những người cầm súng chúng tôi có một tên gọi đầy hãnh diện: “Việt ”. Điều đó cũng lý giải được vì sao khi chúng tôi đã đi trong hàng ngũ cách mạng thì coi cái chết nhẹ như lông hồng.
Những người không cùng thời khó hiểu được “Ngày hội của cách mạng” là như thế nào. Kiều Anh Hương đã nói rất đúng tâm trạng của chúng tôi, của thế hệ chúng tôi thời ấy, thời khát vọng tự do đã gặp được chân lý:
            “Họ đã sống một thời sáng choang quả cảm
            Không sợ đói nghèo
            Chỉ sợ không được đi đánh giặc”.
                                               
(Nhớ một thời)
Đội ngũ những người lính đúng là “Người người, lớp lớp”. Dù hoàn cảnh nào dáng đi của họ vẫn hiên ngang.
            “Quãng đời quàng vai súng
            Chân dép lốp lội rừng
            Lưng cõng đầy gió núi”
                                               
(Thấy lại tuổi hai mươi)
Đó là một dòng thác hăm hở, dòng thác xuyên rừng, băng qua mọi gian lao:
            “Mồ hôi đẫm ướt ba lô
            Súng quàng vai lá nhấp nhô điệp trùng”
                                               
(Ở rừng)
Song nói tới người lính là phải nói tới súng đạn. Chính ở chỗ đó mới là nơi đích thực thử thách khát vọng của mình. Mới là nơi đủ chứng cớ để nói rằng đâu là “dạ sắt gan vàng”. Kiều Anh Hương tả “Cái hầm trên đèo” của mình trong tư thế người lính ấy:
            “Sáng sáng mưa bom
            Chiều chiều bão đạn
            Đêm đêm pháo sáng
            Hầm vẫn bám đường”
Và rồi ở điểm chốt “Tà Lương” chỉ cách Huế chừng ba chục cây số thao thức chờ từng đợt bom dội trên đầu, không biết liệu mình có sống qua được sau trận bom tiếp theo.
            “Tà Lương một ngày không tính bằng một ngày
            Chỉ được tính bằng những lần đang thức
            B52 không chia thành khoảng cách”
Có chờ bom B52 trong đêm mới hiểu mỗi giây trôi qua nặng nề đến thế nào.
Nhân cách người lính là ở chỗ đó, dám đối mặt với bom đạn. Nói một cách khác là không sợ chết. Tức là dũng cảm. Người Quảng Trị đã tổng kết: Mỗi người dân Vĩnh Linh, mỗi người chịu bình quân 7 tấn bom đạn trên đầu. Chiến trường Huế cũng không thua gì chiến trường Quảng Trị đâu. Nghiệt ngã vô cùng, không chỉ bom đạn nghiệt ngã, mà cả miếng ăn cũng nghiệt ngã. Có lá thư của anh em viết ra, suốt bảy ngày không có cơm để dán phong bì. Có người chết vì đói quá ăn phải quả độc. Phải ở chiến trường mới hiểu thế nào là bom đạn, đói khát. Có lúc trong mặt trận Thừa Thiên, nơi mà Kiều Anh Hương đã sống, chúng tôi đã tâm sự thật với nhau rằng: nếu ai sống ba năm, kiểu sống của người lính chúng tôi ở đất Thừa Thiên đói cơm, đói đạn nhường ấy đã xứng đáng là anh hùng rồi. Sống kề bên cái chết như thế, súng đạn dạy con người ta lòng nhân ái. Những kỷ niệm năm tháng nặng lòng đã cho Kiều Anh Hương những tứ thơ thật hay:
            “Chỉ có trái tim bạn bè
            Mới nhận ra nhau
            Giữa cuộc đời thường”
                                   
(Cao thấp)
Tôi tin rằng người lính, vâng người lính, đã trả giá cuộc đời bằng máu xương mình nên họ bao giờ cũng nhân ái. Tôi rất đồng ý với Kiều Anh Hương khi anh nói:
            “Tấm màn lính quây tròn kỷ niệm
            Vẫn phồng căng hơi thở bốn phương trời”
Tôi dám nói vậy, vì tôi đã đọc ở đâu câu thơ này: “Từ khi gắn ngôi sao vàng trên mũ, ta đã là con của vạn nhà”. Chính người chiến sĩ Việt là người có hạnh phúc nhất, vì đi đến đâu họ cũng có “Người mẹ”. Bất cứ người mẹ Việt nào cũng gọi các anh bộ đội là “Con”. Có chuyện thật này: anh bộ đội trong hầm bí mật. Mỹ nguỵ tới, bắt bà mẹ tra khảo. Lấy tôn quấn quanh bà, dùng rơm đốt nóng dần, nóng dần, mẹ vẫn không khai. Cuối cùng mẹ chết. Người chiến sĩ lên hầm, mở tôn ra, da thịt mẹ dính vào tôn. Anh bất giác oà khóc và gọi: “Mẹ ơi!”
Không có tình cảm ấy, Kiều Anh Hương không thể có được những câu nghĩ về bạn bè mình sâu nặng đến như thế, dù lúc đó anh đã ngồi trên ghế trường Đại học:
            “Biết giờ này bạn ở nơi nào
            Rừng biên giới hay sóng xô hải đảo
            Mảnh trăng cuối tuần còn bên sườn núi
            Cánh võng phập phồng... giấc ngủ có ngon không?”
                                               
            (Đêm ký túc xá)
Kiều Anh Hương gắn bó lòng mình với đồng đội như thế đấy.
Và phải thật là người lính anh mới nhìn Tổ quốc mình một cách hết sức rạch ròi. Đau đấy, có lúc thật đau. Nhưng bình tĩnh. Chả thế mà chỉ trong một bài thơ, hai khổ thơ để cạnh nhau, anh đã thấy ở Tổ quốc mình dáng vươn vai đứng dậy hào hùng, dẫu mới 25 năm.
            “Tấm huân chương
            Năm một chín bảy lăm
            Không đổi được áo cơm cho con thời hậu chiến
            Năm 2000 đến thật kia rồi
            Con chợt thấy ngực cha lấp lánh
            Tấm huân chương cuộc đời
            Được tô lại bằng mồ hôi nước mắt
            Bằng trái tim kiêu hãnh làm người
Tôi hiểu hình tượng “Cha” trong thơ Kiều Anh Hương là Tổ quốc.
Vậy Tổ quốc chúng ta kiêu hãnh làm sao. Đọc ba câu đầu, tôi giật mình. Đọc tiếp năm câu sau; tôi trút một hơi thở dài, khoan khoái, như trút được một gánh nặng.
Kiều Anh Hương rất giản dị giải thích những trạng thái tâm hồn mình, có lý, có tình:
            Một chút hương hoa thôi
            Cũng ấm nồng bao thương nhớ”
Đọc thơ Hương, quả thật như tôi được sống lại tuổi hai mươi của đời mình. Chúng tôi được sống hôm nay đã là may lắm. Đại đội tôi 155 đứa. Bây giờ còn 39 đứa đây. Càng nhớ thương bạn càng hiểu cuộc đời. Sự cảm thông ấy giúp cho tôi gặp Hương ở cái mối hàn nối hiện tại bây giờ với quá khứ ngày xưa:
            “Tôi thắp lên thơ tôi một nén trầm
            Để nhớ về bao đồng đội”
Thơ Kiều Anh Hương là một tấm lòng người lính T rị Thiên.
22/12/2001
Y.C

(nguồn: TCSH số 158 - 04 - 2002)

 


---------------------------------------
(*) N.X.B.Hội Nhà văn.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)