Có một văn phong Hồ Chí Minh trong 50 năm sự nghiệp viết

09:52 12/02/2021

PHONG LÊ    

Một sự nghiệp viết chẵn năm mươi năm, tính từ Yêu sách của nhân dân An Nam (1919) đến Di chúc (1969).

Ảnh: internet

Một sự nghiệp viết với mục tiêu cao nhất như được đúc kết trong bài Trả lời các nhà báo, tháng 9/1946:

“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Chính cái “ham muốn tột bậc” vì độc lập cho dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân đã quy định sự nhất quán, sự chung đúc của “một đề tài” trong văn thơ Hồ Chí Minh. Nhưng “một đề tài” qua một tâm hồn thơ nhạy cảm và một kinh nghiệm đời chất chứa, mà cho thấy tất cả chiều rộng và chiều sâu muôn vẻ của cuộc sống nhân loại trong hơn nửa thế kỷ. Con người luôn đứng đầu sóng ngọn gió, lái con thuyền cách mạng vượt qua bao phong ba bão táp cũng là con người biết chăm chút đến từng việc nhỏ của đời sống thường ngày. Con người toàn tâm toàn ý trong một sự nghiệp cao cả nhất, luôn quan tâm đến những vấn đề lớn của dân tộc và thời đại, cũng là con người luôn xúc động trước một tiếng trẻ “oa oa”, không quên giấu một quả táo, để chia cho trẻ nghèo, dặn cháu bé, con người bạn luật sư B, mình thường qua lại, đừng đánh con chó nhỏ Mariuýt(1). Có thể nói đó là phép biện chứng khăng khít giữa trí tuệ và tâm hồn, giữa chất thép và chất thơ trong con người và văn thơ Hồ Chí Minh.

Rõ ràng có con người ấy mới có văn thơ ấy. Con người “đi dép cao su”(2) cũng là con người đã làm nên những chuyện thần kỳ của thế kỷ XX. Con người tạo ra cuộc sống ấy, thêm một điều may mắn lại là con người dường như ngẫu nhiên và đôi khi bất đắc dĩ nữa, có văn thơ để ghi chép, tái tạo lại cuộc sống ấy. Văn thơ ấy, như chính tác giả nói, chỉ có một “đề tài” duy nhất mà vẫn cho ta thấy cả một bức tranh rộng rãi của đời sống, với bao nhiêu dáng vẻ, bao nhiêu vấn đề…

Thế kỷ XX chúng ta tự hào nói đến nền văn học cách mạng hiện đại Việt Nam như một nền văn học mang tinh thần chống đế quốc kiên quyết và triệt để nhất, chúng ta càng thấm thía vai trò mở đầu, ý nghĩa đặt nền móng của nó được Nguyễn Ái Quốc xây nên ngay từ những năm 1920 trên địa bàn Paris là sào huyệt của chủ nghĩa tư bản hiện đại, cũng là trung tâm của phong trào vô sản - cách mạng thế giới. Vòi vọi trong thời gian, những truyện và ký của Nguyễn Ái Quốc lên án chủ nghĩa thực dân, dựng lại những nỗi thống khổ vô hạn của các dân tộc thuộc địa, chỉ rõ con đường đấu tranh giải phóng cho họ ra khỏi thân phận của người nô lệ… vẫn là ánh sáng soi rọi, xuyên suốt toàn bộ nền văn học hiện đại Việt Nam thế kỷ XX. Bên hình tượng “con quỷ vàng” trong văn chính luận của Gorki có tên thực dân đi “khai hóa” thuộc địa trong văn tiểu phẩm của Nguyễn Ái Quốc. Bên bức tranh cuộc sống của công nhân trong các nước tư bản công nghiệp ở phương Tây mà ta đã quen thuộc, có hình ảnh người nông dân ở châu Á, châu Phi với nỗi thống khổ vô tận và tiềm năng cách mạng lớn lao ở họ.

Có một văn phong Hồ Chí Minh - đó là hiện tượng nổi lên khi ta tiếp xúc, thâm nhập vào thế giới văn thơ của Bác Hồ. Một văn phong đa dạng. Đa dạng nhưng nhất quán trong “đề tài”, trong mục tiêu phục vụ cách mạng. Nhất quán trong giọng điệu. Một văn phong là sản phẩm của riêng Hồ Chí Minh nhưng cũng là sản phẩm của dân tộc và thời đại. Một văn phong hòa nhuyễn, gắn nối dân tộc với nhân loại, truyền thống và hiện đại, Đông và Tây, tính nhân văn và tính Đảng. Một văn phong đáp ứng và thỏa mãn được nhu cầu rất đa dạng của mọi tầng lớp công chúng trong suốt hành trình cách mạng, hơn một thế kỷ tính từ thập niên 1920 - từ công chúng thế giới trở về công chúng dân tộc, từ công chúng chọn lọc đến công chúng phổ cập, từ các tầng lớp trí thức uyên bác đến quảng đại quần chúng nhân dân còn trong tình cảnh tối tăm.

Có một văn phong Hồ Chí Minh - làm nên dấu ấn đặc sắc trong văn học hiện đại Việt Nam, không phải bằng sự mài giũa hoặc trau chuốt về ngôn từ, bằng sự cả tiếng hoặc lên giọng. Thế mà ở bất cứ giai đoạn nào, hoặc thời điểm nào của lịch sử, tiếng nói ấy cũng cứ nổi lên như một sự cuốn hút hoặc lan tỏa, như một nguồn sáng hoặc sức lay gọi. Hãy nhớ lại những năm 1920 với Người cùng khổ Bản án chế độ thực dân Pháp, và thời điểm những năm 1930 với Nhật ký chìm tàu. Hãy nhớ lại những năm 1940 với loạt thơ tuyên truyền cổ động, và Nhật ký trong tù xuất hiện như một sự ngẫu nhiên; và thời điểm 1945 với Tuyên ngôn độc lập. Rồi những năm tháng cả dân tộc đi trong khói lửa của hai cuộc chiến tranh, có lúc nào mà người dân Việt Nam nào không khát khao ngóng đợi từng tiếng nói của Bác Hồ. Tiếng của lịch sử và của cha ông trong các bài thơ Xuân chúc Tết và Lời kêu gọi. Tiếng của nhân dân, của người ruột thịt trong các bài nói, bài viết hàng ngày. Lịch sử dân tộc và lịch sử văn học hiện đại sẽ nhận vào mình tiếng nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một âm điệu riêng không lẫn, ai nghe cũng có thể nhận biết; dẫu với bất cứ khoảng cách nào của không gian và thời gian.

Có một quy mô riêng, kích thước riêng ở văn thơ Hồ Chí Minh như ta thấy không phải bằng lượng đắp dày của số trang, bằng độ dày của quyển, bằng sự đồ sộ của vóc dáng, hoặc bề bộn của lời chữ. Chỉ có sự gọn nhẹ, linh hoạt của những tiểu phẩm vài trăm hoặc nghìn chữ; những chuyện kể theo lối chương đoạn với các tình huống truyện không gây căng thẳng; với những khổ thơ 4 hoặc 8 câu, dài lắm không quá vài chục dòng; với những truyện ngắn vài ba nhân vật mà hình trạng và hoạt động của họ bao chiếm không quá dăm trang; với những khổ văn ngắn mà vẫn có điểm xuyết thơ cho dễ nhớ, dễ thuộc… Ngắn gọn, linh hoạt, uyển chuyển, không cần những kích thước lớn, không phải vì người viết không có khả năng bao quát, mà vì người viết thấy không cần làm khác, thấy có như vậy mới thích hợp… Thích hợp với nhiều thế hệ và tầng lớp công chúng đang rất cần tìm đến văn thơ như một vũ khí nhằm giải phóng và biến cải cuộc đời mình. Luôn luôn người biết đứng về phía nhu cầu của người đọc, cũng chính là người làm chủ được mọi vũ khí hoặc phương tiện có trong tay.

*
Có nhà nghiên cứu ca ngợi văn tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc là rất Pháp(3) hoặc thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lẫn vào thơ Đường - Tống cũng khó mà phân biệt được(4). Đó là một nhận xét hay. Nhưng một hướng khai thác khác cũng nên đặt ra, như là một bổ sung cần thiết, là khi viết bằng tiếng nước ngoài nào, tác giả vẫn là người Việt Nam, hơn nữa, vẫn là Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh - người mà bất cứ hoàn cảnh nào, giờ khắc nào, tâm trí cũng như chiếc kim địa bàn, nhạy bén và kiên định, quay trở về dân tộc. Có phải vì thế mà Ô-xíp Mandenxtam, nhà văn Xô viết đầu thập niên 1920 đã có nhận xét rất tinh: “Đồng chí nói tiếng Pháp, tiếng của những kẻ bóc lột đồng chí, nhưng mà những chữ Pháp từ miệng đồng chí Nguyễn Ái Quốc nghe trầm lắng xuống như tiếng vọng bị nén lại của tiếng mẹ đẻ quê hương đồng chí”(5).

Nếu chú ý ngôn ngữ như là công cụ thứ nhất của thơ văn thì việc viết lịch sử văn học, hoặc làm hợp tuyển văn thơ phải chú ý đến tác giả Hồ Chí Minh - là người viết bằng nhiều ngôn ngữ, trong đó ở khu vực tiếng Pháp và tiếng Hán, tác giả đã để lại nhiều áng thơ văn có giá trị. Nhưng mặt khác, điều hợp lẽ và tất yếu là các bộ phận ấy của văn thơ Hồ Chí Minh vẫn là một khu vực gắn bó hữu cơ của văn học cách mạng hiện đại Việt Nam, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản - khi các mối giao lưu quốc tế đã là phổ biến, và trở thành đặc điểm mới của thời đại.

Hành trình tìm đường của Nguyễn Ái Quốc là từ Đông sang Tây, từ dân tộc mà ra nhân loại. Nhưng đích cuối cùng của Nguyễn Ái Quốc là trở về phương Đông, về với dân tộc. Văn thơ Nguyễn Ái Quốc là sản phẩm của một người sử dụng sành sỏi nhiều thứ tiếng, nhưng luôn luôn không nguôi niềm khao khát viết tiếng Việt, và nói với đồng bào. Người đi khắp năm châu bốn biển, nhưng trong ngôn ngữ thường ngày vẫn quen thuộc với tiếng nói dân tộc và ngay đến ngôn ngữ địa phương Nghệ - Tĩnh, vẫn cứ không quên. Người về nước, trực tiếp làm báo tiếng Việt cho đồng bào xem, nhưng vẫn biết dùng cả tiếng Tày, Nùng, Dao - tiếng của các dân tộc thiểu số, để cùng sống, sinh hoạt với nhân dân nơi căn cứ địa.

*
Nhiều người đã nói đến sự kết hợp giữa một “cốt cách cổ điển” với những “sáng tạo hiện đại”, giữa truyền thống và cách tân, giữa phương Đông và phương Tây”(6), như một đặc sắc trong văn thơ Hồ Chí Minh. Dẫu vậy điều mới mẻ không phải chỉ ở chỗ phát hiện cho thấy trong văn thơ Hồ Chí Minh có nhiều âm điệu. Vấn đề còn là ở chỗ: từ sự tổng hòa, sự kết hợp của những âm điệu ấy vẫn có một nét gì riêng, được chung đúc, làm nên phong cách văn thơ Hồ Chí Minh, để có riêng một văn phong Hồ Chí Minh. Viết Bản án chế độ thực dân Pháp trong phong cách hiện đại sắc sảo cho công chúng phương Tây, hay viết bằng chữ Hán trong phong cách trang trọng của cổ thi cho một nhật ký thơ, tưởng như chỉ để riêng cho mình đọc, hoặc lưu lại một kỷ niệm, với tất cả hiệu quả có được, dường như vẫn chưa phải là điều Nguyễn Ái Quốc muốn đạt đến. Cái tác giả muốn đạt đến là sao cho văn thơ viết ra, được chính đồng bào mình, tức những người nghèo khổ nhất, những người bị thiệt thòi nhiều nhất trong xã hội, đọc và hiểu được, tức là với một phong cách thơ sao cho đạt được sự giản dị nhất - một sự giản dị bắt nguồn sâu trong truyền thống cảm nghĩ của dân tộc, và gắn bó mật thiết với những nguyện vọng thiết cốt nhất của quần chúng nhân dân. Phải chăng đó mới chính là phần lắng sâu nhất, ổn định nhất của văn phong Hồ Chí Minh, cái phần làm rung động mạnh mẽ nhất con tim khối óc của hàng chục triệu nhân dân Việt Nam suốt hơn một thế kỷ qua. Con người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, sử dụng sành sỏi bao nhiêu thứ tiếng, con người ấy vẫn là một mẫu mực tuyệt vời của văn phong dân tộc. Con người có đủ mọi chìa khóa ngôn ngữ để đến với mọi lớp người, thuộc mọi lứa tuổi, mọi trình độ khác nhau, bất cứ ở phương trời nào, nhưng trên tất cả, vẫn là nhằm nói và viết cho chính đồng bào mình. Con người giàu có bao nhiêu kiến thức, tiếp nhận và tiêu hóa bao nhiêu tinh hoa của nhân loại, nhưng thấm sâu vào tất cả vẫn là một cái gì rất Việt Nam, và rất “Hồ Chí Minh”, không bắt chước ai và cũng không ai bắt chước được.

Cuối cùng, trên hành trình 50 năm viết không phải lúc nào Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có mặt như một người viết chuyên nghiệp; nhưng thơ văn Hồ Chí Minh luôn luôn có mặt ở những thời điểm trọng đại. Thơ văn Hồ Chí Minh cùng đồng hành với cách mạng Việt Nam. Nhân dân Việt Nam tìm thấy ở thơ văn Hồ Chí Minh tiếng nói của chính mình. Một tiếng nói tiêu biểu và kết tinh cho mọi suy tư và nguyện vọng thẳm sâu của mọi lớp người lao khổ. Một tiếng nói cho hiện tại và cho cả tương lai.

Có phải là từ văn thơ Hồ Chí Minh, văn học Việt Nam hiện đại đã tìm thấy một văn phong kiểu mẫu, một tiếng nói đại diện, và một quy mô thích hợp cho sự phát triển trên chặng đường hơn một thế kỷ qua?

P.L  
(TCSH384/02-2021)

----------------------
1. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch; Sdd; tr.54.
2. Katep Yaxin (Kateb Yacine); để nói về Bác Hồ, trong một vở kịch cùng tên viết về Việt Nam, năm 1970.
3. Phạm Huy Thông: “Lời nói đầu” - bản dịch Truyện và ký Nguyễn Ái Quốc. Nxb. Văn học, H; 1971.
4. Quách Mạt Nhược: Tập san Nghiên cứu văn học; số 5/1960.
5. Báo Lửa nhỏ, số 39 (23/12/1923); sách Văn hóa - Nghệ thuật cũng là một mặt trận. Nxb. Văn học, H; 1981; tr.176.
6. Budaren: Nghiên cứu văn học; số 7/1960.  





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.

  • NGUYỄN VĂN HOA           Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...

  • KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.

  • HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.

  • TRẦN THUỲ MAI(Đọc tập thơ "Quê quán tôi xưa" của Trần Hoàng Phố, NXB Thuận Hoá - Huế 2002)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.

  • VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)

  • NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.

  • YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:                “Những lo toan năm tháng đời thường                Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • VỌNG THẢO... " Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút linh thiêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước... Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi...".

  • VŨ NGỌC KHÁNH.(Đọc sách Phan Bội Châu- Toàn tập do Chương Thâu sưu tầm, biên soạn. Nhà xuất bản Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây- 2000)

  • VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.

  • NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.

  • TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001

  • LÊ THỊ MỸ ÝĐọc tập truyện ngắn "NGƯỜI ƠI" - Lê Thị Hoài - NXB Thuận Hoá 2001

  • HỒNG DIỆUVâng. Thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có thơ viết về Huế và thơ viết về những nơi khác.

  • HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)

  • UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).

  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.