Có một miền quê như thế trong văn thơ Văn Công Hùng

15:00 22/07/2022

ĐÀO TUẤN ẢNH

Hầu như tất cả các nhà thơ trên đời đều có một miền quê ruột thịt để yêu thương, ca ngợi. Quê hương luôn là hồn cốt, là trục chính trong sáng tác của họ, mọi thứ khác đều là những hành tinh xoay xung quanh nó. 

Ảnh: internet

Làng Thiện Vinh - Vụ Bản với trống chèo vào hội, xoan tím mưa phùn tháng ba trong thơ Nguyễn Bính; Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng… nơi Hoàng Cầm, Esenin - nhà thơ Nga nổi tiếng với những bài thơ viết về làng Konstantinovo quê mình, từng chê thơ Maiakovski, người cùng thời, “không có quê hương” và xem đó là lời chê bai nặng nề nhất đối với một nhà thơ…

Huế là quê “thật” của Văn Công Hùng, hiểu theo nghĩa “chôn nhau cắt rốn”. Ngay sau khi tốt nghiệp đại học anh đã vác ba lô xung phong lên Tây Nguyên công tác, nghĩ chí trai bôn ba đó đây cho thỏa, dăm ba năm sẽ trở về. Nhưng không hiểu Tây Nguyên có ma lực gì mà níu giữ được một người (giống đa phần người Huế, vốn rất gắn với quê) ở với mình cho đến hôm nay đã hơn 40 năm. Và thế là Tây Nguyên đã thành “nơi đất ở”, là nơi lập nghiệp, lập gia, thành quê hương thứ 2 của anh - một miền quê ngay từ đầu đã coi anh là “người đằng mình” và luôn tự hào vì anh - đứa con - nhà thơ thành danh. Không chỉ thế, tự hào vì anh còn là nhà… “Tây Nguyên học”, người tự trang bị cho mình những kiến thức đa dạng khả dĩ hiểu được ngọn ngành sinh quyển phong phú của Tây Nguyên - vùng đất già nhất nước, các địa tầng, không gian văn hóa bản địa, văn học - văn nghệ dân gian độc đáo có một không hai của mảnh đất này, để từ đó xâm nhập vào tâm hồn, tính cách con người Tây Nguyên, mối gắn kết hữu cơ của cộng đồng Tây Nguyên với sinh thái tự nhiên ngàn năm mà tách khỏi nó sẽ là một thảm trạng không thể đo đếm. Chính cái phông nền văn hóa vật thể và phi vật thể mang tên Tây Nguyên giàu có này, cái tình yêu say đắm với vẻ đẹp của tự nhiên và con người nảy sinh từ ý thức tìm hiểu bền bỉ này, là nền tảng, nguồn cội cảm hứng, nguồn thức ăn tinh thần nuôi dưỡng thơ anh, tạo cho anh một sự nghiệp đủ đầy. Nói “đất hóa tâm hồn” là vậy.

Xuất phát từ đây, giữa bộ ba cuốn sách Văn Công Hùng vừa xuất bản đầu 2022 bao gồm tập thơ mang tên Chợt với những bài thơ sáng tác từ năm 2019; tập tản văn và ghi chép có tên Từ Tây Nguyên và tập chân dung các nhà văn, nhà thơ mang tên Nhặt chuyện văn nhân, có sự đan bện chặt chẽ, dẫn dựa vào nhau, giải thích cho nhau. Sẽ khó có thể cảm nhận được thơ Văn Công Hùng nặng tính suy tư trong Chợt, nếu không đọc hai cuốn sách còn lại. Là bởi mỗi cuốn sách là một không gian - không gian văn hóa Tây Nguyên; không gian văn học, trong đó có văn học Tây Nguyên; không gian cá tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật - nhà thơ. Những không gian tạo nên chỉnh thể nghệ thuật Văn Công Hùng.

Ở bài viết về Trung Trung Đỉnh, một nhà văn xuôi “bản địa hóa tới mức thành… bản địa”, tức nhà văn Tây Nguyên “thứ thiệt”, Văn Công Hùng cho biết theo lời khuyên của nhà văn đàn anh, đã bỏ truyện ngắn, chuyển sang sáng tác thơ và đã thành công ở lĩnh vực này. Tuy nhiên, văn xuôi - mối tình đầu, tuy bị “ruồng rẫy”, nhưng không dứt áo ra đi hoàn toàn, mà tinh thần của nó vẫn ở lại, hòa trộn vào thơ làm nên những tản văn xuất sắc định rõ phong cách Văn Công Hùng. Nhất là những tản văn về Tây Nguyên.

Nhiều người đánh giá thấp thể loại văn học này, mà không biết rằng tản văn vẫn có thể viết hay và nếu hay nó mang giá trị nghệ thuật không thua kém bất cứ tác phẩm hay nào thuộc các thể loại văn học khác. Bởi nó là một thể văn mang tính tổng hợp hữu cơ tất cả các thể loại văn học khác nhau. Trong nó có truyện, có chính luận và có... thơ, nếu người viết là nhà thơ hay có tâm hồn thi sĩ. Nói một cách khái quát, người viết tản văn luôn phải là “nhiều trong một”. Chính vì lẽ đó tôi sẽ xuất phát từ tập tản văn - Từ Tây nguyên, dựa vào Nhặt chuyện văn nhân, để bàn về thơ Văn Công Hùng giai đoạn Chợt.

Tản văn của Văn Công Hùng trong tập Từ Tây Nguyên chủ yếu là những câu chuyện xoay xung quanh cuộc đối đầu giữa Tự nhiên và Văn minh - cuộc đối đầu muôn thủa diễn ra mọi lúc mọi nơi trên trái đất và độ tàn khốc của nó tỉ lệ với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự tham lam vô độ của loài người. Với các nước đang phát triển vấn đề này từ lâu trở thành vấn nạn, không loại trừ Việt Nam mà Tây Nguyên là một trong những điểm nóng.

Phải nói rằng ở lĩnh vực này Văn Công Hùng đã tiếp thu được những kinh nghiệm và thành công của các bậc đàn anh “nằm vùng” ở Tây Nguyên coi đây là quê hương thứ hai của mình, từ “già làng” Nguyên Ngọc, tới Trung Trung Đỉnh, tạo một kênh mới dựa trên tri thức về địa tầng sinh quyển tự nhiên và sinh quyển văn hóa, con người, xã hội Tây Nguyên thời bình, từ đó đi tới vấn đề cơ bản, cốt tử của thời hiện tại và là đề tài chủ yếu trong sáng tác của anh: vận mệnh của Tây Nguyên trong cuộc tàn phá bạo liệt nhân danh văn minh và phát triển.

Vấn đề này chi phối kết cấu cuốn sách và từng bài viết mà người đọc luôn cảm nhận được trong tản văn của Văn Công Hùng, đó là sự đam mê từng bộ phận làm nên thế giới kì vĩ, bí ẩn Tây Nguyên; là sự bày tỏ thái độ của một người con Tây Nguyên trước sự bức hại ngày càng gia tăng cái thế giới tuyệt vời đó.

Tập tản văn hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối bởi những trang viết thấm đẫm chất thơ về vẻ đẹp của rừng núi Tây Nguyên, về văn hóa, tập tục lâu đời của cộng đồng các tộc người nơi này. Ở đây tác giả đã cung cấp cho người đọc những thông tin chính xác, phong phú bằng giọng kể hóm hỉnh, duyên dáng. Như một nhà cổ sinh “thứ thiệt”, qua những hóa thạch cúc đá tối cổ, anh cho biết vùng đất cao nguyên này vài triệu năm trước là biển; rằng chiêng, ché không phải người Tây Nguyên làm ra, nhưng qua sử dụng họ đã thổi hồn vào những đồ vật này, biến chúng thành “bản địa” và vì vậy mang giá trị văn hóa của riêng mình. Kiến trúc nhà rông Tây Nguyên có mái hình lưỡi búa ngược nổi tiếng được mô tả tỉ mỉ, cặn kẽ, với bếp lửa lớn bập bùng giữa nhà sàn khiến người đọc tưởng tượng tới những cuộc trình diễn hát kể H’mon - trường ca - sử thi Tây Nguyên cổ xưa của nghệ nhân Đinh Gang tài năng, người Bahnar, giữa những tiếng ô a thích thú, thán phục của dân làng vây xung quanh. Điều này cho thấy tác giả đã xâm nhập vào di sản văn hóa Tây Nguyên ở thời hiện đại sâu như thế nào. Cũng như vậy là những bài viết về các lễ hội cổ truyền với tiếng cồng chiêng rộn rã cùng rượu cần lai láng, nơi không phân biệt chủ khách, tất cả hòa nhập làm một với thiên nhiên; hay những mô tả về cách làm tượng mồ Tây Nguyên mà theo tác giả, những nghệ nhân dân gian “không phải lúc nào cũng có thể đẽo được tượng mồ. Mà phải chọn (và biết cách làm cho) cảm xúc thăng hoa nhất, nói nôm na là… Giàng nhập”. Hóa ra đây cũng là một nghệ thuật, hệt như nghệ thuật thi ca, Giàng không nhập, không ra thơ. Và còn nhiều, rất nhiều thứ tạo nên văn hóa Tây Nguyên bản địa đặc sắc và giàu sức sống được nghiên cứu, mô tả, dẫn truyền trong những tản văn của Văn Công Hùng. Tất cả được vẽ thành bức tranh rộng lớn bằng thứ ngôn ngữ văn xuôi mềm mại đầy hình ảnh, đôi khi gắn kết nhuần nhuyễn với những câu thơ tạo sức cuốn hút của tập sách và làm nên phong cách riêng biệt của Văn Công Hùng ở thể loại tản văn.

Nhưng bức tranh tuyệt đẹp ấy đã và đang bị tàn phá dữ dội bởi nhiều lí do mà chủ yếu là lí do chủ quan, tức xuất phát từ con người. Ở đây văn chính luận pha chất “nghiên cứu” được huy động vào cuộc để trình ra cái thực trạng của “những nơi ngày xưa là rừng”, nơi cái nghèo nhất bây giờ là mất đi chiều sâu văn hóa rừng, mất đi sự gắn kết hữu cơ giữa người dân với rừng. Di hại của phá rừng Tây Nguyên không chỉ là nạn lũ lụt khủng khiếp cả miền Trung phải hứng chịu, phá rừng còn phá đi cái thực thể, cái không gian chung khiến văn hóa cồng chiêng, văn hóa buôn làng bị mai một, có nguy cơ làm mất đi vĩnh viễn phần hồn của Tây Nguyên. Hồn cốt mất đi chỉ còn lại cái thân xác bị chia cắt, băm nát, bị bóp méo, làm giả, và con người giờ đây chỉ biết hùng hục kiếm sống, hùng hục bon chen để tồn tại... Ngòi bút tản văn ở đây làm công việc của điều tra truy vấn, phanh phui, trình ra những thảm trạng và đặt ra những câu hỏi nhức nhối: Vì sao? Sẽ đi đến đâu? Làm thế nào để cứu lấy những đàn voi, những đồi cỏ hồng và những rừng thông tuyệt mĩ? Làm thế nào để có điện cho các buôn làng mà không bị thủy điện manh mún làm nát rừng, sập núi? Làm thế nào để giải bài toán về sự đối đầu giữa Tự nhiên và Văn minh, biến đối đầu thành sự phát triển thuận theo tự nhiên, tức không phá vỡ cái quy luật sinh tồn ngàn đời của rừng núi? Văn Công Hùng đặt và trả lời những vấn đề lớn ấy một cách rốt ráo, và luôn cố khẳng định, rằng con người, nếu còn biết lo sợ cho tương lai, vẫn có thể biết cách làm cho tự nhiên sống theo quy luật của… tự nhiên. Để Tây Nguyên không chỉ còn là một cái tên.

Tinh thần Tây Nguyên ấy ở tản văn đã lan tỏa và trở thành linh hồn của tập thơ mang tên Chợt, làm nên sự độc đáo, khác biệt của nó. Dù nhà thơ có nói về điều gì, về ai, có đi đâu, về đâu, thì cuối cùng vẫn bị hút vào cái trường tinh thần ấy. Bốn mươi năm đủ để nhân vật trữ tình trải nghiệm sự đồng hành, cùng biến đổi với thời gian của bản thân và của cái không gian quen thuộc mang tên Tây Nguyên. Thế giới thi ca luôn mở ra bên ngoài khi người ta còn trẻ, giờ đây đã ẩn vào bên trong, thế giới của trải nghiệm và suy ngẫm.

Không gian Tây Nguyên, một thực tại tuy chưa bị mất, nhưng sự thay đổi khiến người biết nó gần nửa thế kỉ không khỏi xót xa và cái cảm giác luyến tiếc - mới đấy mà đã xa, ngập tràn, khiến ngơ ngác: Tây Nguyên mới đấy còn xanh, giờ “chỉ còn những đồi cỏ tranh rạp mãi/ Con đường bầm đỏ một vệt máu mờ”. Mới đấy là rừng, giờ “những vệt dao chém những cánh rừng khô/ Những đôi mắt buồn những ngày u lặng”. Dã quỳ sắc vàng Van Gogh ám ảnh, điểm sáng rực rỡ trong những bài thơ xưa; hoa café trắng màu tinh khiết, ngửi thôi cũng nghiện, nay “vẫn là dã quỳ mùa khô vàng bụi/ mặt đất vênh vao rợn hoa cà phê”. Trước cảnh hoang tàn buồn bã đến cáu giận, đến tuyệt vọng, đến bất cần: “những vòng tròn kiến chật cả bàn chân/ cứ đi cứ đi tới đâu thì tới”.

Mạch thơ này dẫn tới tính trữ tình - chính luận, thường là đặc điểm sáng tác của những nhà thơ hoạt động xã hội tích cực. Nói tản văn và thơ Văn Công Hùng đan bện nhau là thế. Thơ dường như bổ sung và làm sâu hơn những gì còn nói chưa hết trong văn. Hậu quả khủng khiếp của nạn phá rừng bạt núi Tây Nguyên, của những công trình thủy điện manh mún xây dựng vô tội vạ được khắc họa rõ nét bằng những hình ảnh gợi ám ảnh khôn nguôi, từ xót xa cụ thể - “bão đến bão đi lũ lụt chờn vờn/ những thân xác rữa trong lòng nước lạnh/ những gói mì tôm ngơ ngác nấm mồ”, đến khái quát mang chính luận về một thời hoang tưởng và thấm đẫm bi thương về thực tại: “Ôi đất nước ưỡn mình biển bạc/ Ôi non sông lưng tựa rừng vàng/ giờ lẫn lộn giữa ngổn ngang gầm rú/ òa lên một thân xác ngập bùn”.

Nếu để ý ta sẽ thấy những gì phân tích ở tản văn của Văn Công Hùng phía trên được dồn nén trong những bài thơ Ngơ ngác Tây Nguyên, Sóng đồng, Những thuộc mạch thơ này. Mới biết cái quy luật tiết chế năng lượng nghệ thuật tối đa vận hành trong thơ lớn biết chừng nào.

Trong thơ Văn Công Hùng “những kinh hoàng tuyệt vọng lỗ đen” trước sự tàn phá tự nhiên, trước thiên tai lũ lụt, đại dịch, sự sống vẫn gắng gỏi: “có một thời phải nhớ/ để biết mình là ai/ có một thời quyết sống/ triệu năm rồi, thế thôi”.

Tình yêu, một bộ phận của tự nhiên, của sự sống, triệu năm rồi, cũng vậy. Tưởng như nó chết cùng năm tháng theo quy luật tự nhiên, vậy mà không, nó vẫn sống. Sống trong ta, trong ký ức lọc qua phễu thời gian nhỏ những giọt như café đậm đặc. Với Chợt, nhân vật trữ tình bắt đầu bước vào cuộc tìm kiếm “thời gian đã mất” trong thế giới tình cảm của mình.

Ở đây, âm điệu “chợt” gợi thời gian như một “khoảnh khắc”. Nó láy đi láy lại như một mô típ tạo kí hiệu đa nghĩa: chợt nhớ về, chợt hiểu, chợt buồn và… chợt tôi (“Pleiku chợt tôi vừa ngơ ngác”). Motip “chợt” diễn tả sự “đoản mạch” của thời gian, nó có thể gây khó chịu cho những ai quen với tính liền mạch, không ngắt quãng trong thơ, ở đó mọi hình tượng, cảm xúc đều rõ ràng, chuyển động theo thời gian tuyến tính cụ thể, chặt chẽ, truyền thống. Trong Chợt chủ yếu là thời gian bên trong, thời gian của kí ức, ẩn ức, khó nắm bắt. Dường như chủ thể trữ tình cố xâu chuỗi những kỉ niệm để suy ngẫm về cuộc đời đã qua. Nhưng, như chiếc vòng hạt bị đứt, những hạt kí ức rơi vãi tung tóe và mỗi lần nhặt được một hạt là mỗi lần kỉ niệm xưa trong khoảnh khắc dội về. Sự “nhặt được” này chính là sự lựa chọn của con tim bởi những trải nghiệm nhắc đi nhắc lại nhiều lần đã trở thành vô thức. Đọc những “đề từ” chia các nhóm thơ theo thời gian: Tưởng, Mùa, Thời, Khắc… trong tập thơ, không khó để có thể cảm nhận được điều này.

Trong những khoảnh khắc nào đó nó, cái tình yêu ấy, được đánh thức bởi “nghe một tiếng người nhẹ hơn tiếng chiêng”, bởi “dáng ngồi chợt nghiêng” của ai đó, bởi một câu hát tìm trong kẽ đá, một vết chân nhặt từ cát vụn, một “chiếc nơ hồng treo giữa lặng im”… Không hình hài, không khuôn mặt, bởi “Gương mặt em thương nhớ lấy đi rồi”, chỉ còn âm điệu một bài hát quen, hương thơm của hoa xoan, hoa sữa gợi nhớ về, chỉ còn ảo ảnh “chật đêm/ chật những giấc mơ/ chật khoảng cách những lờ mờ bện nhau…”, tức chỉ còn lại cái tình mà vì nó “bàn tay ngửa, xin nhau đừng xưa cũ/ để mỏi mòn câu hát vợi tên nhau…”. Thiên nhiên “dẫu phải vượt lên từ những khối bê tông/ lách ra từ vỉa hè lát đá/ thì vẫn còn những tán lá xanh cho ta trú ngụ/ vẫn những cành cây cho chim hót mỗi ngày”. Tình yêu “cũng là một bóng xanh như thế” vẫn lách ra khỏi những khối bê tông thời gian, sống cùng ta trong tâm tưởng, để “có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi” (thơ Nguyễn Trọng Tạo).

Trong thế giới tình cảm của thi nhân, tình yêu quê hương luôn bao trùm lên tất cả. Và Nguyễn Trọng tạo đã rất tinh khi nhận xét rằng, thật may mắn cho Văn Công Hùng, một nhà thơ, có cả hai quê - Huế và Tây Nguyên, quê mới để thương, quê cũ để nhớ. Là nói một cách khái quát nghệ thuật thế thôi, chứ cái sự thương và nhớ nó không rạch ròi, gọn ghẽ vậy. Ở “Thế Chí Tây tôi và bóng nhập nhòe” - một trong những bài thơ hay nhất của tập Chợt, âm vực, sắc thái của tình cảm nhớ thương thật rộng, thật sâu, hòa lẫn trong nhau. Ở bốn khổ đầu, người con - nhân vật trữ tình kể về nơi chôn rau cắt rốn của mình, “nơi ba mẹ tan hòa vào cát trắng”, nơi “mỗi lần về quê luôn như thể lần đầu”, nơi giờ đây “em xa lạ em như là cổ tích”, chỉ còn “một mình tôi một bóng một chiều”. Những điệp từ “em” và “một” láy đi láy lại tạo cảm giác đơn côi đến nao lòng. Và có cái gì đó như là tủi thân, như là có lỗi với quê hương - mối tình đầu: “Thế Chí Tây tôi như người ở trọ/ lang bạt tứ bề quê chỉ thoáng qua”. Vẫn biết quê hương, lòng mẹ luôn rộng mở bao dung, luôn chào đón - “tôi vong bản nhưng quê không ruồng bỏ/ mỗi khi về xương rồng nở hoa”, nhưng cái âm điệu buồn bã từ bức tranh “Thế Chí Tây một chiều tôi ngồi khóc/ trước ba mẹ mình và trước chính tôi”… vẫn làm day dứt con tim những ai đọc bài thơ này.

Khác với truyền thuyết những người con trai theo cha xuống biển, người trai hiện đại một mình bỏ biển lên rừng. Khác với truyền thuyết, những người con trai bỏ rừng - quê gốc của mình, người trai hiện đại sống hai quê. Có hai quê, người trai hiện đại - thi nhân, thật giàu có. Và sự giàu có trong sáng tác của anh chúng tôi đã cố gắng thể hiện trong bài viết nhỏ này.

Đ.T.A
(TCSH400/06-2022)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.