Chuyện những con đường

16:06 28/01/2013

NGUYỄN DƯ

Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vướng phải hố, mà quàng phải xe

Ngày nay, nhiều người sợ đi ngoài đường. Khác ngày xưa…

Ảnh: internet

Ngày xưa, người ta hăng hái rủ nhau lên đường… Đường lên Thai Thai. Đường tới Xứ Hoa Đào. Đường vào tình sử. Đường ra chiến trường. Đường lên sơn cước. Đường về xóm nhỏ. Đường thiên lí hiền lành. Đường gập ghềnh khúc khuỷu. Đường mòn dữ dội. Ngày xưa có con đường vui đầy ánh sáng. Có con phố buồn không đèn, không tên. Có hoạn lộ dẫn đến cửa quyền. Có ngõ cụt chạy vào lao tù… Có cả đường lên trời, xuống địa ngục của niềm tin.

Có đường diễm ảo, mộng mơ. Thênh thang, lộng gió. Có đường đẫm mồ hôi, trộn máu hoà nước mắt. Chật hẹp, ngoằn ngoèo. Những con đường lầm lì dầm mưa dãi nắng. Những con đường uốn lượn cạnh bờ vực.

Ai trong chúng ta lại không ôm ấp, gìn giữ trong lòng một hai con đường?

Xưa tan trường về
Anh theo Ngọ về
Đôi chân mịt mù
Theo nhau buổi đó đường mơ

            (Phạm Thiên Thư, Ngày xưa Hoàng Thị)

Trả lại em yêu khung trời Đại Học
Con đường Duy Tân cây dài bóng mát.
Buổi chiều khuôn viên mây trời xanh ngát
Vết chân trên đường vẫn chưa phai nhạt…

            (Phạm Duy, Trả lại em yêu)

Những con đường của hẹn hò, yêu thương bỗng một ngày kia vang dội lời ca:

Xuống đường! Xuống đường nào anh em ta ơi!
Tay cầm tay ta cùng bước tung ra phố phường

            (Trần Nhật Nam, Xuống đường).

Có con đường hàng ngày đón nhận tất cả mọi người, bỗng dưng bị trở thành nhân chứng bất đắc dĩ:

Ta nện gót trên đường phố Huế
Dửng dưng không một cảm tình chi!
Không gian sặc sụa mùi ô uế
Mà nước dòng Hương mãi cuốn đi…

            (Tố Hữu, Dửng dưng, 1938)

Đáng thương nhất là những con đường mang nặng dấu ấn của một thời kì đen tối, khủng khiếp:

Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì… đói!

            (Bàng Bá Lân, Đói)

Nạn đói khủng khiếp đã giục giã hàng hàng lớp lớp lên đường cứu dân, cứu nước:

Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng
Kiếm nguồn tươi sáng…

            (Lưu Hữu Phước, Lên đàng)

Đường Việt Nam chứng kiến nhiều cuộc chia lìa, dang dở.

Đường về Hà Nội xa thăm thẳm
Hỡi phố phường xưa bao mến yêu
Mưa nắng có thay lòng kẻ ở
Người đi tình vẫn vấn vương nhiều

            (Lê Minh Ngọc, Đường về Hà Nội)

Em còn nhớ hay em đã quên
Nhớ Sài Gòn mưa rồi chợt nắng
Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân
Nhớ đèn đường từng đêm thao thức…

            (Trịnh Công Sơn, Em còn nhớ hay em đã quên)

Tôi muốn mời em về
Thăm lại Hà Nội xưa

Cổ Ngư chiều đổ lá
Trong mưa buồn lưa thưa
Tôi muốn mời em về
Thăm lại Sài Gòn xưa

Duy Tân chiều say nắng
Uống môi nồng hương xưa

            (Mời em về)

Đường Cổ Ngư, đường Duy Tân dìu dịu buồn, day dứt hơn cả cầu Ô Thước.

Tôi chẳng bao giờ được dìu người yêu đi dạo đường Duy Tân, chẳng bao giờ được thấy đường Cổ Ngư để vấn vương, nuối tiếc. Tôi chỉ biết, chỉ thích mấy con đường “trèo me ném sấu, chơi bi đánh đáo” của trẻ con thôi.

Mẹ kể rằng:

- Cuối năm 1946, nhà mình ở Bốn chó đá dưới Hoàng Mai. Ông bà bên nội bên ngoại ở trong làng, nhà mình ở ngoài phố. Bố có xưởng gỗ. Mẹ buôn bán dăm ba thứ tạp hoá. Trước ngày toàn quốc kháng chiến hai ba ngày, có lệnh tản cư. Gia đình mình 8 mạng người, thằng Thăng còn phải ẵm ngửa, mày được 4 tuổi, dắt díu nhau chạy vào Om, Nhót, Quỳnh Lôi (Thanh Trì). Vất vưởng mất mấy tháng, rồi hồi cư. Cả nhà bị ghẻ lở bê bết. Nhà mình tan tành, xưởng gỗ bị đốt.

Có người mách Bố làm đơn khiếu nại. Tây gọi Bố lên điều tra, cuối cùng chấp nhận bồi thường xưởng gỗ bị lính tây đốt phá. Bố xin được giấy phép lên Hà Nội. Từ đấy nhà mình sống luôn trên Hà Nội.

Gia đình mình thuê được một phòng trên gác nhà cụ Vượng ở phố Bút Xa (Goussard), người mình gọi là phố Chợ Đuổi (Tuệ Tĩnh bây giờ).

- Con nhớ cái phố “Bút Xa gà chết” của Mợ rồi. Nhà cụ Vượng thì con chỉ nhớ cái “kỉ niệm đầu tiên trong đời” thôi.

- Mày học lối ăn nói đao to búa lớn của ai vậy? Ranh con mà cứ như nhà văn, nhà báo viết Hồi kí không bằng!

Nhà cụ Vượng là cái mốc xa nhất của trí nhớ của tôi.

Tôi bị ngã cầu thang nhà cụ Vượng, lăn từ trên tầng gác xuống đến gần sân. Đầu đập vào bực thang bằng gạch, rách toạc một vệt ngay phía trên mắt phải. Mỗi lần nhắc đến Mẹ vẫn còn sợ.

- Hôm ấy, Mợ tưởng mày chết mất.

May mà tôi chỉ phải mang suốt đời một cái sẹo lớn màu đen. Bố Mẹ vẫn gọi đùa tôi là “thằng ba mắt”.

Phố Chợ Đuổi năm 1947 bắt đầu từ phố Huế đến phố Lê Lợi (Bà Triệu bây giờ). Tiếp theo là cánh đồng bỏ hoang.

Ở nhà cụ Vượng được mấy tháng thì Bố Mẹ dọn sang nhà số 35 vẫn phố Chợ Đuổi, nằm xế bên kia đường. Căn phòng cũng ở trên gác như bên nhà cụ Vượng nhưng phòng nhà này rộng hơn. Phía dưới là một cửa hàng giặt là quần áo. Lối vào nhà vừa tối vừa lấm tấm bụi than quả bàng. Mùi thuốc giặt (Javel) nồng nặc. Hơi nóng của lò than đặt trước cửa bốc lên tận ban công…

Ở nhà 35 Chợ Đuổi được độ một năm thì lại dọn nhà. Lần này dọn sang 112 phố Lê Lợi. Nhà nằm giữa Nhà thương đau mắt chùa Chân Tiên. Dưới nữa là nhà Diêm.

Tôi còn nhớ… Trước mặt, bên kia đường là nhà “cô Cúc giết ông huyện Trường”. Cách nhà cô Cúc mấy bước là nhà “cô Minh Đỗ hát nhạc cải cách”.

Cái nhà số 112 Lê Lợi cũng để lại cho tôi một kỉ niệm.

Hôm ấy Bố có khách, chị Thoa rủ tôi ra ngoài sân chơi. Chị cho tôi leo lên xe đạp của Bố, dắt đi ven bờ tường. Bỗng có tiếng Bố từ trong nhà vọng ra:

- Thoa ơi, đun cho Cậu ấm nước!

Chị Thoa “dạ” thật to, rồi buông xe, chạy xuống bếp. Chiếc xe lăn kềnh ra lối đi. Tôi khóc thét lên. Bố chạy ra nhấc xe, đỡ tôi dậy. Tay trái đau quá. Đến tối vẫn còn đau. Hôm sau khuỷu tay bị sưng to.

- Giời đất ơi, mày bị trẹo tay rồi.

Bố Mẹ phải nhờ chị người ở đưa tôi về quê chị trong Hà Đông, nhờ một ông lang nắn tay cho tôi.

Chị người ở đưa tôi đến một gia đình người quen của chị. Sau một hồi xì xào với vợ chồng chủ nhà, chị dỗ tôi đi ngủ. Lúc tỉnh dậy thì... chị về Hà Nội rồi. Tôi ngơ ngác, lo sợ. Sáng sớm hôm sau, tôi đang ngủ thì bị những tiếng sột soạt xung quanh đánh thức. Có tiếng thì thầm:

- Cậu ấy còn ngủ…

Một lát sau lại có tiếng đều đều. Tôi giả vờ ngủ, nằm im. Về sau mới biết ông bà chủ nhà là người Công giáo, sáng sáng cầu kinh.

Gần trưa thì ông lang đến. Ông xem tay tôi. Xem xong ông mở đẫy lôi ra cái cối, cái chày bằng gỗ. Ông mở gói giấy lấy một nắm lá bỏ vào cối. Mở chai rượu đong một tách nhỏ đổ vào cối. Trộn đều. Rồi giã. Rồi đến màn “tra tấn”. Ông nắn bóp, rịt thuốc, quấn một lớp vải, bó tay cho tôi. Tôi bị một trận đau điếng. Sợ ông lang quá. Mấy lần ông đến “thay thuốc” làm tôi… hết hồn. Tôi chỉ nhớ là mình sợ ông lang. Hoàn toàn không nhớ những bữa cơm, những lúc chơi đùa với con ông bà chủ nhà.

Độ một tuần sau chị người ở trở lại. Mừng quá.

Năm 1949…

- Dư ơi, Cậu ghi tên cho mày đi học rồi đấy.

- Dạ!

“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”. (Thanh Tịnh, Tôi đi học).

Tôi cắp sách đến trường Quang Trung, học lớp năm với thầy Ân râu quai nón!

Ngày ngày tôi lững thững, nhởn nhơ đi hết phố Lê Lợi, đến ngã tư Trần Quốc Toản thì rẽ trái, đi thêm một quãng là tới trường Hàng Kèn. Bố Mẹ quen gọi như vậy.

Tuổi thơ được ê a làm quen với con đường:

Tôi, con đường nhỏ chạy lang thang
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng.
Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng,
Hương đồng quyến rủ hát lên vang.

            (Tế Hanh, Lời con đường quê)

Đi học, tôi học được nhiều trò chơi. Trò nào học cũng nhanh, cũng khá. Chẳng bao lâu phố Lê Lợi trở thành “con đường bi đáo” của tôi.

Năm 1951, Bố Mẹ tậu được căn nhà số 43D Ngô Quyền của bà Cao lai tây đen. Mẹ đứng ra gọi thợ sửa chữa, lát gạch hoa, xây bể nước… Mẹ hãnh diện khoe họ hàng cái nhà “phố tây, 4 thước bề ngang”. Đúng là phố tây. 43B là nhà bà Đại me tây, 43C là ông Thiệu may đồ đầm, 45 là tây lục lộ. Trước mặt là nhà thầy kiện Mayer (đại sứ quán Indonésia bây giờ). Nhìn tréo sang bên tay trái là nhà dầu Shell (Ủy Ban Khoa Học Nhà Nước). Ngã tư phía tay phải là nhà S.T.A.I., Hôtel Splendid (Khách sạn Hoà Bình). Bố thoải mái đạp xe đi làm, lên đến Tràng Tiền, rẽ sang bờ Hồ là tới sở Vô tuyến điện.

Tuổi thơ vô tư, có mới nới cũ một cách dễ dàng. Tôi làm quen với phố Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt. Ngày ngày đi học, nhởn nhơ phố Đồng Khánh, phố Huế, dán mắt vào tủ kính nhà sách Trường Xuân, say mê ngắm ảnh Tarzan, Zorro, ngắm con thuyền, luỹ tre, bà mẹ ru con của Về miền Trung, Ru con… Hoạ sĩ Phi Hùng vẽ đẹp quá.

Phố Ngô Quyền trồng nhiều me, sấu. Vỉa hè rộng rãi.

Khó quên được những buổi trời bỗng dưng tối sầm. Đứng trong nhà sốt ruột chờ trận mưa rào. Mưa như trút nước. Mưa tràn đường ngập phố. Tôi xin Mẹ cho ra vỉa hè chơi đùa, tắm mát. Nhớ những lần chờ cho dứt cơn giông bão để chạy ra đường nhặt me, nhặt sấu rụng tơi bời.

Tôi rất thích “con đường me sấu” Ngô Quyền. Phố ưu đãi tôi! Nhưng hè phố cũng có một khuyết điểm đáng phàn nàn là… chỗ nào cũng lát gạch ngay hàng thẳng lối. Rộng thênh thang nhưng không có miếng đất cắm dùi để chơi bi, đánh đáo. Bọn nhóc con phải tìm chỗ chơi quanh gốc me, gốc sấu. Vỉa hè phố Ngô Quyền “hoành tráng” nhưng… vô dụng. Không phải đất thi thố tài năng của làng bi đáo.

Năm 1952, Bố viết thư yêu cầu thành phố trồng cây trước mặt nhà. Mẹ cười Bố hay mơ hão. Hai, ba tuần sau, thành phố cho người chở cây đến trồng! Chuyện lạ nhưng có thực! Sắp hết thời, thực dân mới chịu công nhận… dân là chủ. Không những vậy, thành phố còn giao cho Bố làm chủ cái cây. Dặn Bố trong hai ba tháng đầu, mỗi tuần phải tưới gốc cây một lần. Thấm thoắt cái cây của Bố được 60 tuổi rồi đấy.

Phố Chợ Đuổi, Lê Lợi, Ngô Quyền là những kỉ niệm đầu tiên của tôi. Lúc đầu óc bắt đầu biết nhớ. Ai muốn làm gì mấy con đường này thì cứ việc làm. Nhưng “vu khống” cho mấy con đường này thì… tôi bực mình cho mà xem!

Cách nay đã khá lâu, lúc đầu óc bắt đầu quên, tôi được đọc:

- Từ khi mở phố (Bà Triệu), đoạn phía bắc là đại lộ Gia Long, dân quen gọi là phố Hàng Giò, đoạn quá phố Trần Hưng Đạo đến ngã 5 phố Nguyễn Du là phố Lê Lợi dân quen gọi là dốc Hàng Kèn. Cuối năm 1946 đại lộ Gia Long đổi gọi là phố Bà Triệu, phố Lê Lợi là phố Mai Hắc Đế. Sau 1955 gọi chung là phố Bà Triệu và mở dài như ngày nay(1).

Đoạn viết của Bùi Thiết làm tôi hoang mang, mất tự tin. Mình nhớ sai nhiều như vậy sao? Phố Lê Lợi, Mai Hắc Đế, Bà Triệu… Chẳng lẽ đầu óc tệ đến thế?

Về thăm Hà Nội, tôi hỏi dì Mùa:

- Dì ơi, Dì có nhớ lần Mợ cháu đẻ thằng Sinh, phải nhờ Dì lên giúp mấy ngày liền không?

- Nhớ chứ! Dạo ấy nhà cháu ở phố Lê Lợi. Thuê nhà Tô Cự, bạn tài tử Ngọc Bảo. Mợ cháu đẻ ở nhà hộ sinh của đốc tờ Bách. Quên thế nào được.

Dì Mùa, cả đời chỉ sống ở Hà Nội, xác định năm 1950 nhà tôi ở phố Lê Lợi, phía dưới phố Nguyễn Du.

Có 2 tài liệu chính xác để bàn về phố Lê Lợi là cuốn Danh bạ điện thoại Đông Dương năm 1933(2) và tấm Bản đồ Hà Nội năm 1951(3).

- Tấm bản đồ (không ghi năm vẽ) của Danh bạ cho thấy đại lộ Gia Long bắt đầu từ phố Desbordes (Tràng Thi bây giờ) đến phố Riquier (Nguyễn Du). Từ phố Riquier đến phố Wiélé (Tô Hiến Thành) là đại lộ Gia Long nối dài.

Danh sách đường phố Hà Nội năm 1933 của Danh bạ cho biết phố Lê Lợi là (bắt đầu từ) đại lộ Gia Long nối dài. Nghĩa là phố Lê Lợi bắt đầu từ Nguyễn Du. Ngoài phố Lê Lợi, năm 1933 Hà Nội còn có cả đại lộ Lê Lợi, bắt đầu từ phố Chanvre (Hàng Gai) đến hết Beauchamp (Lê Thái Tổ).

- Bản đồ Hà Nội 1951 cho thấy phố Lê Lợi đổi tên thành phố Bà Triệu. Đại lộ Gia Long năm 1951 vẫn còn. Đại lộ Lê Lợi (Beauchamp) đổi thành Lê Thái Tổ. Phố Mai Hắc Đế nằm tại… Mai Hắc Đế bây giờ.

Bên cạnh tài liệu của Pháp, tài liệu của người Việt cũng viết về phố Lê Lợi. “Hồi 1947, một người bạn tôi là Q… (hiện nay làm ở sở Thanh Niên) ở ngoài kháng chiến hồi cư về Hà Nội. Thành phố lúc ấy tan nát, có đường không còn lấy một căn nhà. Vì thế Hội đồng An dân, phụ trách sự ăn ở cho những người có nhà bị tàn phá, buộc lòng phải lấy tạm nhà của những người chưa trở về để cho những người hồi cư ở tạm. Q… được Hội đồng An dân dành cho ngôi nhà số 47 đường Lê Lợi”(4).

“Quãng nửa dưới phố Bà Triệu, từ chỗ cắt nhau với phố Nguyễn Du, trước gọi là phố Lê Lợi, thì năm 1916 còn là ruộng. Chiều nào ở dốc Hàng Gà mình cũng nghe thấy tiếng kèn rè rè, nghe rợn người. Dân ở đây gọi là kèn đuổi ma. Trường Quang Trung gọi là trường Hàng Kèn. Mình chưa đi quá đấy, cho nên không biết còn có hồ Thuyền Quang, vì chỗ này vừa lầy lội, vừa rậm rạp những cây. Nay là phố Nguyễn Du”(5).

Có thể khẳng định rằng cuối năm 1946 không có phố Bà Triệu. Năm 1947, phố Lê Lợi là đoạn từ Nguyễn Du xuống đến Tô Hiến Thành của phố Bà Triệu bây giờ,

Nhưng tại sao Từ điển Hà Nội của Bùi Thiết lại chép sai nhiều như vậy?

Năm 2010 về thăm Hà Nội, chúng tôi đến thăm, chào hỏi mấy người tại trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole Française d’Extrême-Orient, ngõ Hà Hồi), nhân tiện ghé thăm thư viện của trường. Tôi được tham khảo tập sách dầy cộm ghi chép biên bản các buổi họp thời Pháp tạm chiếm của hội đồng thành phố Hà Nội. Tôi đọc vội được vài trang, ghi chép vài điều. Tiếc rằng quên không ghi tên sách, nhà xuất bản. Vô duyên!

Sách chép: Ngày 1/12/1945 có cuộc họp bàn đổi tên đường thành phố Hà Nội:

Phố Nguyễn Khuyến đổi thành Lương Ngọc Quyến.
Đại lộ Gia Long               …         Mai Hắc Đế

Đại lộ Đồng Khánh         …         Triệu Quang Phục

Phố Goussard                 …         Thái Phiên

Phố Lê Lợi                        …         Bà Triệu

Đường Bạch Mai              …        Nam Bộ
 
Đường Cống Vọng          …        Cách mạng tháng Tám

Tiếc rằng những thay đổi này chỉ là chuyện của bác sĩ Trần Văn Lai và hội đồng thành phố Hà Nội họp bàn, quyết định trên giấy tờ. Cả nước đang hồi hộp, lo sợ chiến tranh sắp bùng nổ. Chưa có ai đứng ra thay đổi bảng tên đường phố.

Ngoài nhóm bác sĩ Trần Văn Lai ra, dân Hà Nội sống dưới thời quân đội Pháp còn đóng trong thành Hà Nội, chưa ai được thấy hay nghe nói đến mấy cái tên đường, tên phố hừng hực khí thế chống Pháp như Nam Bộ, Cách mạng tháng Tám, Thái Phiên…

Năm 1951, đến lượt bác sĩ Thẩm Hoàng Tín đổi tên đường phố. Lần này… thay đổi thật. Tên phố được ghi vào bản đồ, được gắn ngoài đường.

Năm 1954, “hòa bình lập lại”, lại đổi tên một số đường phố. Phố Hàng Lọng được đổi thành Nam Bộ. Năm 1990, Nam Bộ đổi thành Lê Duẩn.

Sau 1975 đường phố Hà Nội lại đổi tên.

Phải chờ đến ngày “thống nhất đất nước” mới có đường Cách Mạng Tháng Tám. Nhưng đường này là của… Thành phố Hồ Chí Minh.

Đường phố Hà Nội “đổi mới” không ngừng. Phải chăng Bùi Thiết và một số nhà “Hà Nội học” đã căn cứ vào những quyết định chưa được đem ra thi hành của bác sĩ Trần Văn Lai nên đã viết sai?

Ngoài mấy kỉ niệm của đường phố nơi mình ở, tôi còn mấy kỉ niệm của nhà trường.

Năm học lớp tư hay lớp ba (lớp 2, lớp 3 bây giờ) trường Quang Trung, tôi được một con đường dạy cách “tính thời gian để hai người đi đường gặp nhau”.

Cả lớp há hốc mồm nghe thầy giảng. Giảng xong thầy bảo chỉ cần học thuộc lòng mấy câu thơ:

Trên đường kẻ trước với người sau
Hai kẻ đồng chiều đuổi gấp nhau
Vận tốc đôi bên tìm hiệu số
Đường dài chia với khó chi đâu.
Trên đường kẻ trước với người sau
Hai kẻ ngược chiều muốn gặp nhau
Vận tốc đôi bên tìm tổng số
Đường dài chia với khó chi đâu!


Tuyệt vời! Nhớ đến già.

Nhưng không phải con đường nào cũng sẵn sàng giúp học trò như vậy. Ngược lại, có đường vô tình… cản đường tiến của nghệ sĩ tương lai.

Năm đệ thất trường Trần Lục (Tân Định, Sài Gòn) tôi được học nhạc với thầy Thiên Phụng. Thầy dạy nhiều thứ lắm. Nào là đánh nhịp 3/4 thì đưa tay theo hình tam giác đều, nhịp 2/4 thì đưa lên đưa xuống. Có vậy thôi mà tôi khua tay cũng không đều. Nào là nốt trắng, nốt đen, nốt móc, nốt này kéo dài bằng hai lần nốt kia... Thú thực là với tôi tất cả đều vô nghĩa.

Lí thuyết xong, qua phần thực hành. Cả lớp tập hát một bài “chậm rãi, tình cảm” do chính thầy soạn:

Tiếng chuông chiều thu không nào đây
Đường còn xa chưa đi được mấy
Chim lướt trong trời mây
Bóng thôn làng nấp sau tre gầy.


Thầy hát trước. Cả lớp hát theo. Mỗi câu hát 3 lần. Rồi thầy đi đến trước mặt từng trò. Trò hát, thầy nghe. Nhiều đứa được thầy gật đầu. Có đứa bị thầy sửa. Một lát sau thầy đến hàng ghế cuối lớp, dừng lại trước mặt tôi. Tôi đằng hắng, cất giọng. Thầy nghiêng đầu nghe. Rồi thầy nhăn mặt, lắc đầu, ra hiệu cho tôi ngừng hát. Thế là xong!

Mai sau làm gì thì làm, chớ có mơ mộng làm ca sĩ, nghe rõ chưa! Uổng cơm cha mẹ, uổng công thầy Thiên Phụng.

Nước nhà thống nhất… Người thì mơ tưởng một con đường sắt mang lại ấm no:

Trên đường Xuyên Việt
Tàu ra đi
Nặng than Cẩm Phả
Trên đường Xuyên Việt
Tàu trở về
Trĩu gạo Bạc Liêu


Người thì tiếp tục tự hào đường ta rộng thênh thang tám thước. Làng Hoàng Mai cũng tự hào được trở thành một quận nội thành Hà Nội. Đất lên giá vùn vụt.

Ngày nay nước ta đổi mới, hội nhập. Con đường cái quan, quốc lộ số 1, bây giờ có thêm tên mới AH1. Tỉnh Gia Lai cũng có đường AH… Tôi bỡ ngỡ, thắc mắc. Anh bạn cho biết AH là Asean Highway. Ồ! Hết chỗ chê. Đâu phải chỉ có Mĩ mới có highway. Ta cũng có. Muốn là có! AH của ta độc đáo hơn highway của Mĩ rất nhiều. AH cho phép cả người đi bộ, xe thồ, xe bò qua lại thoải mái. Có đoạn ôtô phải dừng lại tránh nhau, tránh hố. Tha hồ bóp còi chào nhau.

Thuở bé được học: Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông.

Già đầu rồi mới nghiệm ra: Đường đi khó không khó vì lòng người ngại núi e sông mà khó vì hố sâu, đường ngập, lái ẩu, thắng hư. Khó vì lòng người ngại… bị chết oan!

Mới đây, tháng 9 năm 2012, vợ chồng tôi về thăm một chị bạn ở Bến Tre. Chị bạn khuyên chúng tôi nên dạo chơi con đường từ cầu Hàm Luông về chợ của thành phố. Đường nằm ven sông. Sạch đẹp, thoáng mát, thư giãn.

Chúng tôi hăm hở ra chân cầu Rạch Miễu đón xe buýt, dặn lơ xe cho xuống chân cầu Hàm Luông.

- Cầu Hàm Luông xuống đây nghen!

Chúng tôi xuống xe. Gần 11 giờ, trời nắng chang chang. Trước mặt, sau lưng chúng tôi là một con đường rất rộng, thẳng tắp, vỉa hè lát gạch rất đẹp. Lòng đường, vỉa hè không bị lấn chiếm như tại Hà Nội, Sài Gòn. Đường khá dài. Người đi bộ lúc này chỉ có vợ chồng tôi. Cặp du khách… trông chẳng giống ai! Đang đi, bỗng có tiếng động mạnh.

- Bốp!

Tôi giật mình. Một chiếc honda chở hai người từ phía sau rồ lên, quẹt vào tôi.

- Cà chớn! Rộng như vậy mà chạy xém chút thì đụng người đi bộ.

Chúng tôi tiếp tục đi. Cầu Hàm Luông còn cách khá xa. Xung quanh chẳng thấy đường nào khác. Chắc là nhầm rồi. Chúng tôi quyết định qua đường, đi trở lui, hỏi thăm đường đến bờ sông. Vừa đứng lại trước một tiệm sửa honda thì…

- Bốp!

Chiếc honda ban nãy lại từ phía sau rồ tới. Lần này thằng ngồi sau giật được… cái áo mưa đeo ngang bụng của tôi. Mấy người ngồi trong quán Cà Phê Võng gần đó hốt hoảng chạy ra. Mấy chú xe ôm từ bên kia đường cũng chỉ trỏ, hò hét. Người thì tưởng hai thằng đi honda cướp gà. Người thì lo ngại chúng tôi bị cướp tiền bạc, giấy tờ. Người thì giục đi báo cảnh sát, công an. Tôi nói chỉ bị mất cái áo mưa xoàng thôi. Khỏi cần khai báo làm gì cho mất thì giờ. Mọi người an tâm, quay sang than phiền nạn du đãng, cướp bóc.

- Từ ngày thành phố mở mang, tụi nó lộng hành quá trời!

Chúng tôi đành phải bỏ dở cuộc dạo chơi thoải mái, thư giãn. Tránh cướp chẳng xấu mặt nào. Tôi tự an ủi không bị xô té gẫy tay gẫy chân, không bị đánh vỡ mặt là nhờ phúc đức ông bà phù hộ. Còn muốn gì nữa? Khôn hồn thì mau mau về trung tâm thành phố kiếm cái gì ăn cho… lên tinh thần.

Mới hơn 12 giờ trưa mà chẳng còn tiệm ăn nào mở cửa. May quá có một lò bánh mì nóng giòn. Lúc này nhai cái gì cũng thấy ngon. Một lát thấy siêu thị Co.opMart. Vào làm mỗi đứa một tô hủ tiếu. Nhâm nhi cà phê đá. Thật sự thư giãn, thoải mái. Vệ sinh sạch sẽ. Thủng thẳng đón xe buýt về cầu Rạch Miễu.

Thăm Bến Tre mà quên cả mua kẹo dừa. Chỉ ôm về được một kỉ niệm không đáng nhớ.

Nước ta gần đây làm nhiều đường. Đường vượt trên cao, đường chui dưới sông, đường xuyên lòng núi, “đường gốm sứ” sặc sỡ, vui mắt. Đường nào cũng được tặng danh hiệu, lập kỉ lục. Đường đẹp nhất, đắt nhất Việt Nam. Đường dài nhất Đông Nam Á. Đường xuống cấp nhanh nhất thế giới.

Bên cạnh mớ kỉ lục, giang sơn gấm vóc vẫn đang chờ mong có được vài con đường thông thoáng an toàn, xanh sạch đẹp, văn minh... Khỏi phải đốn rừng vàng, vét biển bạc để lấp đầy hầm hố, hàn gắn nứt rạn, che dấu lún sụp của những con đường chúng ta đi.

Lữ khách la cà, thì thầm ca hát…
Đường ta đi dài theo đất nước bao la hiền hòa
Đường ta tỏa đi khắp nơi làng quê tới chốn rừng xa…
Yêu biết mấy những con đường

            (Phạm Tuyên, Yêu biết mấy những con đường)

Những nẻo đường Việt Nam
Suốt từ Cà Mau thẳng tới Nam Quan…
Yêu là yêu không bờ bến rồi.
Yêu là yêu những nẻo đường ấy…

            (Trọng Khương, Những nẻo đường Việt Nam)

- Này, các cụ thường nhắc Đường đi hay tối, nói dối hay cùng. Đã có chỗ ngủ cho đêm nay chưa?

Lyon, 11/2012
N.D
(SH287/01-13)


------------------------------
(1) Bùi Thiết, Từ điển Hà Nội-Địa danh, Văn hóa Thông tin, 1993, tr. 19.
(2) Annuaire complet 1933, Répertoire alphabétique des rues de Hanoi, tr. 505-511.
(3) Bản đồ Hanoi Économique 1951, Ming Sang, Hanoi, Editions Recherches/Ipraus, 2001, tr. 114.  
(4) Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai, Nguyễn Đình Vượng xuất bản, 1972, tr. 138.
(5) Nguyễn Công Hoan, Nhớ và ghi về Hà Nội, Nxb Trẻ, 2004, tr. 99-100.
     












 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách