Chuyện Lão Khứ

15:18 31/10/2011
LÊ QUANG VINH Những người nông dân vùng này thường gọi ông già ấy là lão Khứ. Đó là một ông già trạc khoảng sáu mươi, thân hình cao lớn và tầm thước. Cái cằm vuông và to của lão được trời ban cho bộ râu rễ tre ngắn, cứng và tuy hơi thô vẫn làm lão già bệ vệ hơn các lão làng khác.

Ảnh chỉ mang tính minh họa (nguồn: vnthidan.net)

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Có lẽ trong độ tuổi này chỉ có lão mới có một đôi mắt to, và thứ ánh sáng phát ra vẫn còn chói chang, thẳng thắn, hơi dò xét, thách thức, và hình như sẵn sàng bùng lên ngọn lửa tức giận giữa những buổi trưa hè rơm rạ đã giòn khô.

Người ta kể rằng, khi lão Khứ còn là trai tráng, lão mạnh khỏe và cao to hơn bây giờ nhiều, mỗi khi bắp thịt tay lão cuộn lên, là báo trước một sự quật ngã. Lão Khứ và những đám trai trẻ trong vùng này bị Tây bắt đi xây bốt. Nhà lão nghèo, lão phải làm thuê đó đây. Những người làm ăn kha khá nghe đến chuyện làm cu ly là run bắn lên. Công việc nặng nhọc, ăn uống kham khổ lại thêm cái kiểu quan Tây cầm hèo theo sát sau lưng. Lão Tiềm hồi bấy giờ, đi cu ly một tháng về tới nhà sống chỉ được hôm nữa, bỗng dưng máu miệng hộc ra mà chết, lão Khứ nhận làm thay cho những người đến lượt phải đi cu ly lấy vài đấu gạo. Có một hôm, lão phải vác một cây gỗ to. Đường xa, gỗ nặng, thằng lính Tây lại luôn tay dùng hèo quất vào sườn lão. Lão Khứ sôi máu lên, lao ném cây gỗ ra xa, hai tay chống nạnh, lão nghiến răng và trợn đôi mắt đục ngầu nhìn vào mặt thằng Tây. Thằng Tây há hốc mồm, nó buông cây gậy và đứng sững người. Lão Khứ chộp lấy hòn đá cuội có khía nhọn giương lên trước đỉnh trán của nó. Hốt hoảng quá, thằng Tây hét lên một tiếng và bỏ chạy...

Cho đến bây giờ, lão Khứ vẫn còn giữ lại bóng dáng của cái ngang tàng thời trẻ trung đó, tuy lão già hơi lập dị, và giọng nói vẫn còn âm vang. Khi lão nói, tay phải vung lên hạ xuống, khi lão nhìn thì tay chắp sau lưng. Lão quen chắp tay như vậy và chẳng có gì bí ẩn trong ấy. Đó là đôi bàn lay của một thợ cày đã quá thâm niên. Những khối chai cứng nổi lên trên bàn tay, cứ tưởng là cái thời đại hạn trước đây lão già chuyên vắt sỏi lấy nước tưới ruộng, và để nắm lấy cái sừng lắc lấy lắc để mỗi khi con trâu ông chủ không chịu nổi buổi cày trưa nóng ngáp.

Tính lão vẫn thế, tuy về già thì càng bộc trực hơn. Người ta nói rằng lão nóng như thiên lôi đánh sét cháy bụi tre sau vườn nhà bà Tám, và khi lão hiền thì cười hì hì như cây bồ đề trong chùa mỗi lần gió nồm mát rượi đi qua.

Ai hỏi đời tư của lão, chắc lão thật khó nói. Lão sinh hạ được hai người con, một gái và một trai. Đứa con gái được sáu tuổi thì vợ lão vĩnh biệt lão mà đi. Lão đã chùi nước mắt và cam chịu cảnh gà trống nuôi con cho đến khi thằng Khứng và con Lụa đều khôn lớn. Thằng Khứng thật giống bố nó. Giống nhất là đôi mắt, mà tính tình nó cũng chẳng khác chút chi. Thằng bé có tâm hồn sáng mịn như thước đất phù sa mới có ở bãi bồi, và ngạt ngào rung rinh như đám lúa nếp vừa mới khô sữa tỏa mùi ngây ngất, lão vẫn thường nghĩ thế. Lão chỉ còn nhớ một đêm. Một đêm mưa, trời chớp giật những đường sáng lóe, Lão nhớ rất rõ, thằng Khứng vừa đi cuốc ruộng về dưới mưa. Nó dựng cuốc vào vách thềm và gọi:

- Ba ơi!

- Mày kêu chi đó? Lão Khứ hỏi.

Thằng Khứng không nói không rằng chạy vào ôm lấy bụng lão. Nó nói nhỏ vào tai lão: «Ba ơi, con lên chiến khu». Lão hỏi: «Mày đi với ai?, chừ hả?». Thằng Khứng không nói, nó siết chặt lưng lão, rồi ôm vội cái bọc vút ra giữa trời đêm giông bão.

- Khứng! Khứng ơi!

Lão gọi nó lần chót và để mặc cho những giọt nước mang vị mặn chảy ròng trên gò má... Từ đó lão mong chờ những đoàn quân giải phóng trở về...

Nhưng, Khứng đã hy sinh anh dũng...

... Mãi cho đến bây giờ, lão Khứ vẫn sống như thế. Lụa đã hai mươi tuổi. Con bé đã trở thành bí thư chi đoàn trong cái làng này rồi, nó lại là cán bộ hợp tác xã. Cứ như thế, mỗi lần Lụa đi làm về, mới bước lên cửa lão đã hỏi:

- Hợp tác có gì mới không con?

- Dạ có.

- Có cái gì nói tao nghe nào!

Lão già hít một hơi thuốc lá đợi chờ. Lụa vào nhà làm gì đó, một lúc lâu tiếng cô gái mới vọng ra:

- Hôm nay hợp họp về khâu nâng cao sản lượng.

- Nâng cao để làm gì? Nâng chỗ nào?

Lụa biết mỗi lần bố hỏi như thế là tiếp theo đó ông cụ sẽ to tiếng dần lên, và có khi cả đấm bình bịch xuống bàn. Cô đành phải nín thinh. Quen lệ như thế, hai bố con thường to tiếng với nhau chuyện không phải chuyện gia đình. Lão Khứ vẫn rung tay khoát khoát:

- Tao biết! Tao biết mà, các thầy cứ ngồi trên giấy tờ mà chỉ chõ chỗ này ba tạ chỗ kia bốn tạ, như cái đồng Nến thì gì tới hai tạ hai?... hừm! phải nói cho rõ!

Lão Khứ vừa lầm bầm, vừa mò mẫm, cây rựa vót. Lão vác lên vai và đi ra ngõ...

Cả làng này ai cũng biết lão Khứ. Có lẽ lão biết được hết bao nhiêu chuyện có trên đời này! Trên cái xứ sở keo kiệt của đất đai này vốn dĩ tạo cho lão cái tài năng đó. Một cơn giông có thể báo trời mưa hay không, hãy cho lão lắng nghe tiếng sấm ắt là thiên lôi không dấu được trời mấy tuổi. Một con trâu cày giỏi hay không lão chỉ nhìn vào đôi mắt của nó là đoán được. Và lạ thay, cái bàn chân gân guốc với mấy cái móng chân cùn thâm mà lão cũng biết được ruộng nào tốt, ruộng nào xấu.

Nhưng ở lão, có lẽ thích thú nhất là chuyện làm ăn của hợp tác xã. Ở các ông già khác, người ta thích suy tư chuyện đời mình, còn lão - lão vẫn thường đăm chiêu chuyện ruộng khoán, chuyện đắp mương, chuyện bơm thuốc- nhưng đó không phải chuyện tào lao.. Người ta cũng kêu rằng lão hay xúc xiểm. Chẳng là cách đây mấy hôm lão đã sừng sộ với ông Kiểm cán bộ hợp tác đó là gì? Chuyện là thế này: Hôm ấy, ban quản trị tổ chức việc đấu gỗ. Trời vừa qua mấy cơn bão lớn, những cây bạch đàn, dương liễu cao to ngã sóng soài. Đoàn người dự đấu đã dừng lại trước ngõ nhà lão.

- Lên giá: Ba mươi đồng!

- Tôi ba mươi hai đồng!

- Ba mươi lăm đồng!

Lão Khứ dừng lại, đứng ngắm cây gỗ to một lát, lão hắng giọng nói:

- Mấy ông làm ăn hay quá ha! Ai có tiền thì đấu đá cây này, cây kia... còn ai không có tiền là đứng nhìn.

Kiểm quay lại đôi mắt bừng bừng:

- Ai nói vậy đó? Ông Khứ hả!

- Tôi nói đây, Lão Khứ nói đây!

- Ông không có quyền nói ai giàu ai nghèo, ông nói ai đứng nhìn?

Lão khứ bắt đầu vung tay:

- Hừm... tôi nói như vậy có đúng không? Như vậy là bất công, vì sao tôi không đấu được vì tôi không có tiền nộp, còn mấy người kia - lão chỉ vào đoàn người - họ có tiền bỏ ra ngay. Nhà ngói thì cứ nhà ngói, nhà tranh thì thành nhà gì? hứ! anh nói nghe thử? Tôi sẽ nói với anh chủ nhiệm nữa kia!

Thấy lão Khứ toan nổi giận, ông Kiểm đành đấu dịu:

- Thôi mà! làm sao cũng chỉ có lợi hợp tác, chứ có lợi riêng ai đâu?

- Được rồi, lợi hợp tác. Tôi hỏi ông bữa nào ông có bắt tôi góp tre hay không? góp tre thì ai cũng đều góp, còn đấu thì ai có tiền mới đấu được!

Lão Khứ bỏ đi, lão đã nghe rõ ông Kiểm nói nhỏ sau lưng một câu gì đó với người khác. Tối ấy, như thường lệ, Lụa đi họp về. Vừa bước lên cửa, lão Khứ đã hỏi:

- Họp hành có gì mới không con?

- Dạ có.

- Việc gì nói tao nghe chơi!

Lụa vẫn im lặng chưa chịu kể cho bố nghe. Đến tối. Lão Khứ ngồi khoanh chân trên chiếc chõng trên. Lão phì phèo trong tay chiếc điếu cày tỏa đặc khói. Lúc lâu. Lụa mới hỏi:

- Ba nói gì với ông Kiểm lúc chiều thế?

Lão vẫn phì phèo:

- À tao đã nổi khùng lên với ông ta.

- Dạ. Chi bộ khen ba nói đúng.

Lão Khứ rút phắt cái điếu cày ra khỏi miệng:

- Sao? Chi bộ khen tao nói phải à. Chi bộ nói sao?

- Anh Tâm nói là bác Khứ nói đúng. Còn ông Kiểm thì bảo đúng cái gì mà đúng.

- Rồi sao nữa?

Anh Tâm nói là hiện nay kho của ta chưa có gỗ làm, nhà hợp tác thì thiếu nhiều gỗ để tu sửa. Trường học lại thiếu bàn ghế, tại vì sao không đem về để dùng vào các việc nói trên mà đem đấu... Đem đấu thì người nghèo không đấu nổi, còn ai có tiền thì mới đấu được, như vậy là mất công bằng, dân phải dư luận.

- Thế lúc đó ông Kiểm nói gì?

- Dạ. Ông ấy không nói gì hết.

Đôi mắt lão Khứ sáng lên, lão lẩm nhẩm trong miệng: « Thằng Tâm, Thằng Tâm ». Lụa không hiểu bố cô nói gì. Cô hỏi:

- Ba nói gì đó?

- Ừ. Tao nói thằng Tâm thật là sáng suốt.

- Dạ, anh ấy là bí thư Chi bộ, anh ấy đang bồi dưỡng con thành đảng viên.

Trầm ngâm lúc lâu, lão Khứ bỗng hỏi:

- Bồi dưỡng là bồi dưỡng cái gì?

- Bồi dưỡng là... là giáo dục, rèn luyện con thành người Cộng sản, chẳng hạn - Lụa ấp úng không biết nói kiểu nào cho bố hiểu - Làm việc hết mình để cho hợp tác xã giàu mạnh, vì quyền lợi của nhân dân mà hy sinh, phấn đấu. Cuối cùng Lụa mới chọn ra một câu nói thích hợp:

- Giống như anh Khứng vậy ba à.

Lão Khứ chớp mắt lia lịa và lão cười:

- Ồ! Nó hy sinh cả tính mạng. Phải gắng lên con, không dễ đâu!

Phút chốc, Lão Khứ ngồi lặng như ông phỗng đá, bóng lão được ánh đèn dầu hắt lên trên phên nứa thành hình pho tượng lặng yên như tờ như đang nhìn vào từng dòng suy nghĩ của lão.

Đêm đó, lão Khứ nằm thao thức không ngủ...

Lão khứ có thói quen, thỉnh thoảng vài ngày lão phải ghé vào văn phòng hợp tác xã một lần. Lão đến để nghe có tin gì mới về làm ăn và ở đây lão cũng nói toạc ra những việc làm xấu mà lão nhìn thấy. Thành ra, người ta thường to tiếng với lão. Mỗi lần, lão đều có mỗi chuyện.

Cách đây mấy tháng, cũng ở chỗ này, lão lại « găng» với ông Biếm. Ông Biếm là người giữ chân đem nước vào ruộng ở cánh đồng trên. Mỗi lần vào văn phòng hợp ông ta lại hay than phiền:

- Tôi xin giao lại việc này cho hợp thôi. Suốt ngày làm cả suốt đêm nữa mà công điểm thật thua người khác nhiều.

- Thế chú thua mấy? - Lão Khứ lên tiếng.

- Không! tôi không nói với ông.

Lão Khứ bắt đầu hoa tay:

- Này, ông không nói với tôi thì tôi nói với ông. Nếu ông làm không nổi thì nên thôi chứ để vậy lôi thôi quá. Ruộng ông thì nước lúc nào cũng chừng mực cả, mà ruộng người khác, ruộng hợp thì lúc ông để khô lúc thì nước lút đầu. Mình là nhà nông mình đẻ ra trên ruộng, ai lại cho nước kiểu đó.

- Thôi, thôi đi ông. Ông Biếm bắt đầu tía tai - Ruộng có chín mười mẫu, tôi có phải ba đầu sáu tay mà làm như ông nói?

- Thế sao ông không nói với hợp chuyện đó là lại cứ xổ ẩu như vậy? Đúng rồi, ông có mất chi, lúa ông vẫn cứ tốt mù trời! Thôi tôi phải nói với cán bộ hay hơn... Chuyện đó lão Khứ đã làm mất lòng ông Biếm. Nhưng không, lão già không bao giờ làm khác như thế, cho dù có thể làm mất lòng nhiều người hơn thế nữa.

Cho đến hôm nay, lão lại vác cây rựa vót ghé vào văn phòng hợp tác thăm chơi. Anh Quyết chủ nhiệm mời lão ngồi xuống bàn và hỏi lão.

- Bác đến có việc gì với tụi cháu đấy?

Lão Khứ nhấp một hớp trà rồi thong thả trả lời:

- Ờ có chứ. Nghe nói hợp nâng sản lượng tui cùng muốn biết cho ra lẽ.

Anh Quyết đốt xong điếu thuốc vấn và vui vẻ nhìn lão:

- Dạ, thưa bác, kế hoạch của hợp là phân hạng sản lượng thế này, cháu đọc bác nghe có hợp lý không.

Anh Quyết cầm tờ giấy trong cặp ra đọc chậm từng chữ cho lão nghe. Đọc xong, Quyết hỏi:

- Ra sao bác? được chứ?

- Ừ cũng được, nhưng tôi muốn nói hai chỗ này, đồng Trén hai tạ hai một sào như thế quá cao. Tôi đã từng làm vùng này nên tôi biết, đất đây chua đến nỗi cua cũng phải bò đi, trâu cũng phải nhác cày, chân đất lại quá cạn. Tôi nghĩ chỉ khoảng tạ chín đến hai tạ là cùng.

Quyết vội vã lôi cuốn sổ tay ra chép lại. Lão Khứ lại tiếp:

- Còn cái vùng Phát Lát này lại thấp đấy, ai lại cho nó chỉ tạ tám? cái vạt này đã cứu đói nhà tôi mấy năm liền rồi đó, nó phải hai tạ mới đúng.

Lão Khứ nhấp một ngụm trà và nhồi thuốc vào điếu cày. Lão bật lửa châm tẩu và kéo một hơi dài. Phút lâu, lão lại hỏi: - Này, anh Quyết, tôi muốn hỏi một cái không biết được không?

- Dạ, bác cứ nói.

- Thế này nhé, tôi nghe một số người nói với nhau về cái chuyện nâng sản lượng này. Họ nói là khi sản lượng tăng lên thì lúa chia cho phần công cao lên. Mà họ lại làm được ít công chỉ vì làm trên ruộng khoán ba sào vài công đắp mương không đáng kể. Chỉ trừ vài người là có công trực tiếp gì đó quá cao thôi. Còn cán bộ thì công phần trăm gì gì ấy lúc nào cũng cao, như thế là cán bộ khôn, có đúng thế không.

Lão Khứ thấy Quyết thả cây viết xuống bàn và mặt bỗng tái đi.

- Ai đã nói với bác một cách kệch cỡm như thế? Chúng tôi đã ăn quỵt của hợp tác cái gì chưa? Thật là đồ nói điêu! Ai nói như vậy, bác?.

Lão Khứ lặng lẽ rít một hơi điếu cày và nhả khói. Tâm từ bàn bên kia bước tới. Anh kéo ghế và ngồi đối diện với hai người:

- Đồng chí Quyết, đồng chí nên bình tĩnh thì hơn. Có lẽ đó là một dư luận có thật. Nhưng tôi nghĩ rằng nó do hoàn cảnh khách quan tạo ra. Họ nói như thế rất có lý. Nguyên nhân sâu xa là do kiểu đọc canh cây lúa của hợp chúng ta tạo ra. Nếu chúng ta có vài cái lò gạch, nếu chúng ta có đàn bò hai, ba trăm con, nếu chúng ta có thêm vài chục hồ nuôi cá thì lao động trong hợp không bao giờ dư luận như thế. Đấy, anh xem mỗi lao động mỗi tháng có tới hai lăm, hai sáu công thì họ thu nhập cao hơn, người nào cũng làm số công tương đương nhau hơn. Đấy, thế đấy! có đúng không bác Khứ?

Lão Khứ nhìn Tâm, đôi mắt lão sáng lên diệu kỳ, lão cười hể hả:

- Khá, khá lắm! Các anh hơn bọn tôi nhiều!

Suốt mấy hôm nay lão Khứ nghĩ ngợi nhiều hơn cả. Cả cái làng này, ngay cả chính lão đều thấy mến thằng Tâm. Nó sống cuộc đời nó như con đẻ của cái làng này vậy. Đúng là Đảng của Cụ Hồ.

Tự dưng lão thấy buồn. Giá mà thằng Khứng còn sống chắc nó cũng như thế.

Nhưng rồi lão thấy vui. Con Lụa của lão nó đang vui với đời của nó. Có khi nó đi làm suốt ngày, suốt đêm. Khi họp hành, khi công tác xa, nhiều khi đi quên cả ăn uống. Lão thấy lão sống vắng vẻ nhưng không hề cô độc. Nhiều khi lão tự nấu lấy cơm nước và ngồi ngậm chiếc điếu cày nhả khói chờ lúc con Lụa về cùng ăn. Lão cảm thấy lòng hân hoan khi biết dân làng này cũng rất mến yêu con gái lão.

Nhưng bây giờ khác hẳn mọi lần, khi Lụa vừa về tới nhà lão đã hỏi vọng ra:

- Sắp được vào Đảng chưa con?

Triệu Hải, ngày 16 tháng 11-1985
L. Q. V
(17/2-86)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LTS: Trang viết đầu tay kỳ này, Sông Hương chọn một số tác giả - tác phẩm trong bút nhóm "Dòng Xanh" thuộc Đại học sư phạm Vinh.Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

  • VÕ TUẤN ANHTà áo dài đượm màu tím biếc, nón lá nghiêng che thấp thoáng lúc sang sông ngập trán trong những giọt nước mưa đầu mùa trên đất cố đô. Những phong vị ấy dường như là mùi vị của Huế, nguyên sơ và thanh thoát đến lạ thường, tất cả hình ảnh đấy quá đỗi thân thương đối với những ai đã trót nặng lòng với Huế.

  • Kính gửi: Ban biên tập Tạp chí Sông HươngTừ ngày biết đến Tạp chí Sông Hương, cháu thường theo dõi và rất thích đọc, đặc biệt là những trang thơ. Gần đây cháu rất vui là tạp chí đã có những thay đổi về hình thức cũng như nội dung.Thỉnh thoảng cháu cũng làm thơ, nhưng chủ yếu viết cho mình đọc, cùng lắm là tặng cho bạn bè. Không dám gửi cho tạp chí nào cả, sợ họ cười.Lần này theo lời khuyên của mấy đứa bạn, cháu gửi  mấy bài thơ này lên Tạp chí Sông Hương để các chú các cô trong ban biên tập xem cho cháu.Cháu xin chân thành cám ơn và kính chúc các chú các cô trong ban biên tập khỏe, hạnh phúc.                                                                Q.L

  • LTS: Cái đẹp có khi phải hơi thiêu thiếu một chút mới gây được mỹ cảm ở người thưởng ngoạn... Có lẽ xuất phát từ quan điểm ấy mà Lãng Hiển Xuân viết truyện ngắn nầy với chiều sâu ý tưởng đầy chất nhân văn, nhưng người đọc cảm thấy vẫn còn thiếu một chút gì...Chúng ta vui mừng khi biết đây là trang viết đầu tay của anh. Xin giới thiệu với bạn đọc, và chờ đợi Lãng Hiển Xuân những sáng tác mới.SH

  • LTS: 17 bài thơ đầu tay làm thành tập "Mùa huyết phượng" 17 nốt nhạc xanh lưu luyến thổn thức chia tay với tuổi thần tiên.Sông Hương xin giới thiệu trong số 17 bài thơ ấy

  • TẠ XUÂN HẢI - ĐỖ THƯ

  • LTS: Trong những ngày đầu tháng 8, Sở GD-ĐT, Hội LH VHNT TT-Huế đã phối hợp tổ chức Trại sáng tác Thiếu nhi 2009 tại làng cổ Phước tích và Khu du lịch Thanh Tân. Trên 40 tác giả nhí đến từ các thôn làng, TP Huế đã cùng nhau viết về nét đẹp quê hương, về bốn mùa đi qua trong mắt, về những kỷ niệm đẹp trong đời và những khát vọng vươn lên... Do số trang có hạn, Sông Hương xin giới thiệu 2 bài thơ trong số rất nhiều tác phẩm có được từ trại viết ấy.

  • MINH CHÂU TRẦN             Truyện ngắnTôi sinh ra và lớn lên ở làng Tây Hồ, ngôi làng được ngăn cách với chung quanh bằng mấy luỹ tre rậm rạp và cánh đồng quê bát ngát. Làng chúng tôi cách làng Đông một cái gò và cánh đồng ấy. Trên gò là một ngôi miếu nhỏ nhưng cổ kính. Nghe bà tôi kể lại thì nó đã rất lâu đời rồi và linh thiêng vô cùng.

  • LTS: Cuộc thi sáng tác văn học “Trang viết học trò” do Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Thừa Thiên Huế phát động trong năm 2008 đã thu hút hơn hai ngàn bài dự thi của cả ba cấp học và đã tổ chức lễ trao giải thưởng ngày 15/5/2009 cho hơn 50 bài viết có chất lượng. Các nhà văn, nhà thơ Hồng Nhu, Lâm Thị Mỹ Dạ, Mai Văn Hoan, Phạm Phú Phong, Nguyễn Khắc Phê đã được mời làm Ban Chung khảo cuộc thi. Tạp chí Sông Hương kỳ này vui mừng giới thiệu với bạn đọc một bài đạt giải trong cuộc thi này.

  • HOÀNG KIM NHI        (CLB Văn học Trẻ Thừa Thiên Huế)            Nhân đôi mắt, máu trái tim

  • Đêm Phước Tích

  • Khúc hát chị đi tìm

  • ...Mùa nắng hạn thèm được nghe tiếng sấmCha thở dài nhìn đập nước cạn khôCỏ cháy héo thương bầy trâu trơ mõmĐêm con cóc nghiến răng đến thẫn thờ...

  • DƯƠNG THÙY DƯƠNG                (Câu lạc bộ Viết Trẻ Thừa Thiên Huế)Lớp 3. Vào năm 198 mấy, tôi biết về những giao xúc yêu đương của người lớn. Phòng ngủ của mẹ tôi không có cửa vì  phòng ngủ của những người lớn lúc bấy giờ đều như thế, không có cửa. Một tấm rèm nhựa màu xanh lấp lánh như phòng ngủ của mẹ đã thuộc hạng sang.

  • Trần Vĩnh Liên, sinh tháng Tư năm 1975, vào thời điểm lịch sử dân tộc chuyển sang trang mới.Bạn viết trẻ của Sông Hương dù khá đông đảo nhưng tìm được một người chào đời vào cái mốc lịch sử ấy thì quả là hiếm!Sông Hương giới thiệu trang thơ đầu tay của Trần Vĩnh Liên với ý nghĩa đó.Ước mơ thời học sinh của Liên là sẽ theo học văn chương, nhưng như một duyên nợ, Liên lại là cử nhân ngoại ngữ (Khoa tiếng Đức - Đại học Ngoại ngữ Hà Nội). Thơ Trần Vĩnh Liên giàu ước mơ và dự cảm nhưng còn thao thức, phân vân giữa đường biên hư - thực; nhiều rung động muốn giãi bày nhưng lại giữ gìn, e ấp. Chính điều đó đã làm nên nét quyến rũ thầm kín, run rẩy của thơ Trần Vĩnh Liên.

  • Phan Danh Hiếu - Ngô Thị Thục Trang - Trần Đình Khuê - Nguyễn Thị Hương - Trần Văn Quyết - Nguyễn Đình Dương

  • LÊ THỊ PHƯƠNG HIỀN                                Truyện ngắnTháng bảy mưa ngâu ấy với Thuỷ là nhiều kỷ niệm nhất. Đúng dịp nghỉ hè của trường đại học, Thuỷ và Huy có thời gian quấn quít bên nhau bù lại những ngày bận tối mắt vì ôn thi. Huy chở Thuỷ trên cái xe đạp vẹo vọ, đợt ấy Hà Nội dầm trong mưa nhưng chẳng có ai cảm thấy chán đi chơi cả. Hai đứa chung nhau một chiếc áo mưa.

  • NGUYỄN LÊ VÂN KHÁNHGió lạ“Huế vào đêm cuối năm mưa lùn phùn và những cơn lạnh ù ù miết vào da thịt tôi. Gió mỗi lúc một lớn. Tôi không nghĩ đêm 30 vẫn còn những cơn gió lạ lùng như thế. Mẹ tôi lúc còn sống bà thường nói rằng ông trời dung dưỡng tất cả con người sống trên mặt đất này.

  • NGUYỄN MẠNH TIẾN (*)“Thiên sứ đích thực của triết gia là điều chỉnh những điều chênh lệch; kiện tráng những điều chính nghĩa; thăng hoa những điều thánh thiện”. (Alcuin)

  • NGUYỄN KIM LOAN - NHỤY NGUYÊN