Chuyện đi câu

08:47 31/07/2008
PHẠM THỊ CÚCMột ngày đẹp trời chúng tôi “lên đường” bằng... ô tô, đi câu cá ở một cái hồ xa xôi tận miền đông bắc nước Mỹ.

Câu cá là thú vui của nhiều đàn ông, nhiều người mê câu cá như đa số đàn ông Việt Nam mê bóng đá vậy. Như ông chồng tôi hễ cứ thấy có trận bóng đá nào trên ti vi cho dù đội bóng đá nữ, hay của thiếu nhi, thiếu nhi đường phố... của ai cũng được, miễn là đá bóng, làm gì cũng bỏ phải xem cho được. Còn những trận đá trên sân, thì dù có mưa gió bão bùng... cũng mặc, miễn là được xem. Còn nhớ lần ấy, đã lâu lắm rồi, cả nhà chúng tôi: hai vợ chồng đi làm, hai con nhỏ đi nhà trẻ, mẫu giáo mà chỉ có đúng một chiếc xe đạp, hôm đó chồng tôi đến nhà bạn chơi vì “hàn huyên” lâu quá, xe lại để ở gốc cây dưới nhà nên kẻ cắp đã “mượn” và cả nhà chúng tôi đành đi bộ vậy.
Chiều hôm đó, xe mới bị mất, lại mưa to, gió lớn, nhưng trận đấu bóng trên sân vận động Huế, không hiểu tại sao vẫn diễn ra như đã định, chứ không bị hoãn lại vì thời tiết xấu và anh ấy cũng đội trời mưa tầm tã, đi bộ để được coi đá bóng của đội nhà.
Còn câu cá là niềm đam mê chỉ xếp thứ hai sau banh bóng, lại có thêm “đồng minh” là chàng rể, chuyện câu cá đối với chú rể được xếp hàng ngang với sở thích xem đá bóng của ông bố vợ.
Chúng tôi lên đường đi câu với một “hành trang” khá đầy đủ: cơm trưa, nước uống, tăng, bạt để ngồi, quần áo tắm…nghĩa là như một cuộc picnic (không phải lên núi) về biển.
Đến nơi, xe ô tô được đỗ trên một bãi rộng, bên cạnh đồi thông, bạch dương bạt ngàn, cảnh sắc trên rừng, dưới hồ... thật vô cùng ngoạn mục, bố vợ và chàng rể, hai người hai cần câu, hai lon mồi (mồi cá là những con cá mại nhỏ bằng ngón tay, đang sống, lội tung tăng, được mua với giá 10 đô được 15 con) hai cha con lội ra xa, cách bờ khoảng vài chục mét, tôi và con gái ngồi trên ghế dài đặt trên bờ. Nghe nói hồ này nhiều cá lắm, nhưng nhìn mãi mà không thấy ai câu được con cá nào, cả việc giật cần câu lên cũng không thấy, chứ nói gì câu được cá. Nhưng khi câu được cá, dù cá to, hay nhỏ, đều phải thả xuống nước ngay, tôi hay nói đùa với con gái là “niềm vui mới chỉ có một nửa”. Ở Mỹ, khi muốn đi câu ở nơi nào, người ta phải đóng tiền (theo từng năm, từng quý, từng tháng...). Không riêng gì ở Mỹ, mà ở Pháp cũng như nhiều nước khác, đi câu đều phải đóng tiền, như tiền phí cho một trò giải trí vậy.
Ban đầu, hai vợ chồng chúng nó hay cãi nhau, vì khi câu được con cá to, vợ muốn đem về nhà nấu ăn, còn chồng thì sau khi được vui khoảng một phút vì bắt được cá to, liền thả ngay xuống nước cho cá được sống vì họ lý luận rằng: những nước công nghiệp phát triển, thì môi trường bị ô nhiễm nặng, như không khí, nhất là nguồn nước thường bị nhiễm những hơi độc như hơi thủy ngân chẳng hạn, nên dù vợ rất muốn đem cá về ăn, còn chồng thì nhất quyết bỏ lại. Và về sau thì con gái tôi đã chịu nhượng bộ với câu nói hơi buồn: “Câu được cá nhỏ hay to, nhiều hay ít, thì cũng thế thôi, có được ăn đâu mà ham”...
Tôi nhớ hồi ở Pháp, sau hai tháng thực tập ở một trường đại học của thành phố Toulon (miền nam nước Pháp) tôi lên Paris , ở nhờ nhà của chị Mỹ Linh và anh Nguyễn Xuân Hồng (anh Hồng là em ruột của nhà giáo, nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm). Gần nhà anh chị Hồng có một vườn hoa rất rộng, trong vườn có hồ, có đường dài để người dân đến chạy và tập thể dục... Vườn đó tên là Chatenay-Malabry, nơi đó đã từng đón vua Louis thứ 14 là ông vua có nhiều công lao nhất đối với nước Pháp trong số mười tám ông vua Louis.
Tôi đến chơi ở vườn hoa đó, thấy một ông già đang ngồi câu trên bờ một cái hồ rất rộng, bên cạnh là một cái giỏ đầy cá, đang ngâm dưới nước (để cá khỏi chết) tôi lân la hỏi chuyện “loại cá này ăn có ngon không bác?”. Ông trả lời: “tôi đã ăn đâu mà biết có ngon không”. Thấy tôi mở tròn mắt ngạc nhiên, ông nói tiếp: “Số cá này, trước lúc ra về tôi sẽ thả hết xuống hồ”, và ông giải thích thêm: “Vì sợ nước hồ bị ô nhiễm nên không dám ăn cá”. À ra vậy.
Trở lại chuyện câu cá của chúng tôi, chúng tôi ngồi nói chuyện phiếm một hồi cũng chán, lại thấy chung quanh, người lớn, trẻ con tắm, người bơi lội, kẻ bơi phao rất vui vẻ, tôi cũng rất ham tắm, ham bơi, liền vào một bụi rậm gần đó tìm cách “thay đổi y phục” để đi tắm. Hồ nước trong vắt và mát lạnh, dưới lòng hồ trong cạn những viên đá cuội tròn, trắng, trong trong, đục đục nhìn rất đẹp, tôi cũng đem về Việt Nam một nắm, gọi là kỷ niệm gọi quá lên là của biển Đại Tây Dương (vì hồ đó gần biển Đại Tây Dương) và khi đi biển Cape Cod, tôi cũng cố gắng đem về nhà một nắm “nghêu, sò, ốc, hến” của biển Đại Tây Dương thật.
Lặn xuống nước, mới bơi được mươi thước, lặn hụp dăm lần, khi đứng chân xuống lòng hồ, trên thảm rong rêu mượt mà, xanh óng…sao thấy những vật gì hơi trơn trơn, cứng cứng dưới chân, bèn lặn xuống nhặt lên hoá ra là… trời ạ, bao nhiêu là con phọp, ở ta hay gọi là con bọp bọp. Ôi chao là nhiều, những con phọp vừa to vừa già, vì chắc hàng năm, hàng đời chẳng ai bắt cả, cứ đặt chân xuống là đụng một lúc bốn năm con, có con to bằng quả xoài tượng. Tôi thích chí quá, la toáng lên gọi con gái “đưa cho mẹ cái túi ni lông thật to...”. Vì tôi nghĩ, chung quanh tôi tuy đông người thật đó, nhưng họ không hiểu tiếng Việt. Tôi cứ tưởng con gái tôi không nghe thấy, lại gọi, một lúc sau nó đem ra không phải một mà là hai, ba cái túi to. Mặc dầu rất thích bơi vì nước rất mát nhưng vì ham bắt phọp hơn, nên cứ hụp xuống trồi lên và chỉ một lúc sau đã đầy một túi to.
Chàng rể và bố vợ cũng lội xuống cùng một mức nước đứng câu, nhưng chàng rể được cái “ưu điểm’ là chiều cao xấp xỉ Từ Hải của Nguyễn Du là “...thân mười thước cao”, nghĩa là cao gần hai mét nên không bị ướt quần còn bố vợ thì tuy chưa “phải đấm” nhưng quần ướt hết vì chiều cao “khiêm tốn” hơn, cả hai cũng mải mê câu nhưng chưa ai được con cá nào. Hay vì tôi hụp lặn quá gần, làm cá sợ chạy trốn hết? Chàng rể tuy câu không được cá hơi buồn, nhưng lại lo bố vợ buồn hơn, nên thỉnh thoảng lại liếc sang, thấy bố vợ cứ co chân lên, thò tay xuống... chàng nghĩ “xấu” cho bố vợ là đứng lâu quá bị “mót” nên tiểu bậy ra hồ và khoát nước rửa đó thôi, nhưng lại nghĩ “ba bị gì mà chân co lên, thò xuống hoài vậy nhỉ”
Khi lên khỏi hồ, tôi khoe với chồng tôi “em bắt được một túi phọp to chưa nì”, anh ấy cũng nói “anh bắt được nhiều hơn em”. Ngoài số phọp lận đầy lưng quần, anh còn bỏ đầy hai túi to căng nên khi bỏ ra thì nhiều hơn của tôi thật. Hoá ra là câu cá mãi không được con nào, thôi thì “câu” phọp thay vào vậy.
Về đến nhà, hai mẹ con xông ngay vào bếp, hí hửng: “ chuyến này được một bữa tiệc cháo phọp mê ly đây”. Sau một hồi luộc, hấp, xào, nấu... với bao nhiêu tiêu, hành, chanh, ớt…thơm phức, vui vẻ, hào hứng dọn ra bàn, thì chàng rể thoái thác không ăn vì bị “nhức đầu” đang nằm dài vì mệt. Tôi hỏi con gái “chồng con sao vậy”, “anh ấy nói không ăn bất cứ con gì bắt dưới hồ đó”. À ra vậy, những con cá to, ngon lành là vậy mà còn thả xuống nước lại, không ăn, thì những con phọp “già khụ” này cớ gì lại ăn?
Thế là nồi cháo hôm đó chỉ là “đặc sản” của người Việt thôi, tuy chàng rể là một người cực kỳ hiền lành và dễ tính. Nhất là trong chuyện ăn uống, chàng ta mê tất cả các món ăn Việt Nam, kể cả nước mắm, ruốc…chẳng hạn món dưa môn khô muối chua, nấu với tôm, chàng ta nhận xét “ăn dai dai ngon ngon”, nhìn cách ăn thì biết là ngon thật chứ không phải khen “xã giao”.
Những bữa cơm ở nhà hàng Tàu, Thái Lan, Ý…của hai vợ chồng con gái tôi, dù ngon, dù thích đến mấy, sau những câu khen, đều có câu: “nhưng mà không ngon bằng những món của em nấu”. Cũng phải công bằng mà nói rằng, con gái tôi cũng rất thích nấu ăn món Việt , Tây, Tàu... Trên các kênh truyền hình của họ, một lúc có cả hàng trăm kênh và phát hai mươi bốn trên hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày, có những kênh chuyên về nấu ăn. Như chúng ta đã biết dân Mỹ gọi theo đúng nghĩa đen là “dân tứ chiếng” nên món ăn của họ cũng không có gì đặc trưng, mà cũng chỉ là những món của các nhà hàng ăn Tàu, Thái, Ý, Nhật... Dân Mỹ họ nấu thường là “hổ lốn” ví dụ món rau xào thì cho nhiều thứ rau, quả bỏ lẫn vào và xào lên.
Trở lại món phọp, ở nhà đã phải ăn ba bữa liền: cháo phọp, canh phọp, phọp xào... đến bữa tiệc thứ tư, một người bạn Việt mới mời hai chúng tôi đi nhà hàng.
Buổi câu “cá phọp” thứ hai, chúng tôi đi xa hơn. Chả là chàng rể vì quá thích câu cá, nên khi mới học năm đầu cấp ba, bà mẹ đã mua tặng sinh nhật cậu ta một chiếc thuyền phao, đến bây giờ gần hai mươi năm vẫn còn dùng tốt. Chiều hôm đó, chúng tôi hì hục bơm căng xong chiếc thuyền, bỏ vào hai tấm ván to để ngồi, ba chúng tôi lên thuyền, bơi ra giữa lòng hồ. Giữa hồ hoa súng rất nhiều, nở đầy rất đẹp, hai người thì thích câu, còn tôi thích hái hoa, làm động nước nên cá sợ chạy hết, nhưng lần đó cũng câu được một chú cá khá to. Lúc đó tôi đã bị “đuổi” lên bờ, chưa kịp nhìn cho rõ, con cá đã được thả lại xuống hồ. Hai mẹ con tôi đang nướng thịt gà và bắp ngô thì trời bỗng đổ mưa, phải vào chòi để trú, có những chòi lợp lá gì như lá cọ, có bàn gỗ là những tấm ván to, dài ghép lại với nhau để làm bàn (cao) và ghế (thấp hơn) cho những người đi câu dùng làm bàn ăn, hoặc ngồi nghỉ chân lúc mưa, nắng…Dưới hồ, vì mưa to, nên hai bố con cũng vội vàng bơi vào bờ để tránh mưa, nhưng cũng không khỏi “ướt như chuột lột”.
Tội nghiệp chàng rể, lần đi câu thứ hai, không được con cá nào cứ luôn miệng “con xin lỗi ba vì đã không làm cho ba vui do chuyện câu không được cá”, cứ như là chàng ta mắc lỗi vì xúi giục cá đừng cắn câu của bố vợ vậy, trông bộ dạng thật là tội nghiệp!
Thật là những kỷ niệm “Chuyện đi câu” không bao giờ quên...
P.T.C

(nguồn: TCSH số 156 - 02 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • MINH CHUYÊN (Tiếp theo và hết)

  • LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.

  • MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).

  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.

  • VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.

  • VÕ MẠNH LẬP                Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.

  • DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.

  • NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )

  • TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.

  • ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.

  • PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư  hoàn cảnh”.

  • ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...

  • TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!