TÔ NHUẬN VỸ
Cứ sắp đến Tết và vào những ngày Tết người ta hay bàn soạn và bàn luận về các món ăn, về sự ăn uống ngày Tết. Không có ăn thì chẳng còn là ăn Tết mà.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (bên trái) và nhà văn Tô Nhuận Vỹ - Ảnh: tư liệu
Cũng vì lẽ đó, vào cữ này mỗi năm, có mấy chuyện "ăn" mà tôi sắp kể dưới đây, cứ "cựa quậy" hoài trong trí nhớ của tôi.
* * *
Sau tết Mậu Thân, nhiều cơ quan ở chiến khu bị thiếu gạo, đói lắm, nhất là với những cơ quan toàn loại "chân cò tay nhện" như cơ quan tuyên truyền báo chí, giáo dục của chúng tôi. Món ăn duy nhất hàng ngày là món móng-trâu-hầm. Nếu là cái móng của chân con trâu thì đã quý, nhưng đây là cái gốc, với nhiều tép giống hình cái móng chân của con trâu, là loại cây ''ăn vào không chết" gần như duy nhất còn chưa bị chất độc hóa học Mỹ hủy diệt ở vùng giáp ranh. Cũng phải bở hơi tai mới kiếm được một gùi đem về cho chị Hảo cấp dưỡng, chứ cũng chẳng dễ dàng gì. Phải lấy dao vạt vỏ ngoài, có khi gặp loại "cốc-đế-đại-vương" thì phải lấy rựa mà vạt mới xong. "Thịt" nó có những sọc tía nhựa như củ nâu, phải vằm nhỏ đem ngâm với nước tro trước khi hầm. Hầm vài giờ đổ ra đem xuống suối xả sạch chất độc. Lại hầm một lần nữa và đem xả sạch như lần trước. Đến lúc đó mới đem nấu, một soong "tổ bố" móng trâu ba chục người ăn "rắc" vào một vài lon gạo và một nạm muối. Muối lúc đó quý hơn sâm. Cả cơ quan còn hơn lon muối, đang bị thương như tôi, thỉnh thoảng được thủ trưởng phát cho vài hạt để ngậm "cho lại sức". Tay run, đánh rơi một hạt, phải cúi người dán mắt phen lá khô tìm cả giờ cái hạt muối quý hơn hạt ru-bi ấy.
Cái món móng trâu ăn đúng là "vô vị" ấy, nhai cứ xạp xạp trong miệng, cũng không có nhiều để chêm cho đầy bụng, chỉ mỗi bữa vài chén. Ăn xong mà cứ tưởng như chưa ăn. Anh em có sáng kiến: mỗi lần chị Hảo hô xuống bếp, cứ tự nói với mình hoặc nói to lên với nhau là, ta mới ăn đó, bây giờ đi ăn thêm cho vui! Vậy mà có cảm giác no hơn thiệt! Ngày ấy, Nguyễn Khoa Điềm có câu thơ nói về cảnh sống dưới địa đạo, dưới hầm sâu "giấc ngủ nào cũng mơ mặt trời lên" anh em sửa trẹo đi, "giấc ngủ nào cũng mơ bữa ăn no!" Đói vậy nhưng chúng tôi vẫn ra đều tờ báo "Cờ Giải phóng" của thành phố. Vẫn tiếp tục viết về những ngày Tết mới đó. Tôi có một bài báo nhỏ mà gây "chấn động", bài Tô bún giữa chiến hào. Đó là một chuyện có thực. Hôm đầu tiên chiếm giữ thành phố, tôi là phóng viên đang có mặt tại đơn vị chốt vùng sát sân vận động Tự do. Cho tới chiều thì anh em ở ngoài chiến hào mới sực nhớ từ sáng chưa có hột chi vô bụng mà lương khô, cơm nắm, bánh tét, bà con vùng giải phóng Phú Vang bới cho đã rơi đâu hết cả. Đúng lúc ấy một bà mẹ không biết từ đâu đến gánh ra hào một gánh bún bò "chưa bóc tem". Mắt-cười- Miệng-nói- tay-múc, mẹ múc cho mỗi người hai tô, có anh làm tới ba tô, ăn không kịp nuốt và cả không kịp cám ơn mẹ nữa vì đã nghe tiếng ken két xích xe tăng đâu từ phía lao Thẩm vấn vọng tới.
Cái “tội" của tôi ở bài ghi nhanh ấy là tôi đặc tả chi li về tô bún bò của mẹ: Nước dùng nóng bỏng và ngọt lừ, chả nhuyễn, tiêu vừa và giò ngéo thì đầy nạc và mềm rục, rau sống tươi rói và ớt dòn nước mắm cốt,... hơi ngon, hơi cay xộc lên tận tinh mũi bắt trào nước mắt... Anh em tuyên án: giữa lúc thắt ruột đói kém, thằng cha này thèm lèm anh em quá độc. Từ người đọc duyệt, biên tập cho đến anh em nhà in sắp chữ đọc tới đâu nước miếng tưới ra tới đó, đau buốt cả hàm xai. Anh em đâu biết chính để ghi lại một chút tình của bà mẹ thành phố, “trí tưởng tượng" của tôi còn bị huy động gấp mười lần anh em, đến mức chẳng còn nước miếng đâu mà tưới ra nữa. Hàm xai, ruột gan đã buốt đến "tê liệt" từ khi chưa có ai đọc bản nháp của bài đó kìa!
* * *
Còn chuyện này là chuyện về thím, thím Phép Viễn Trình. Tết nào con cũng nhớ đến thím, từ cái chuyện ăn uống ngày thường... Thím nghèo và chung thủy với cách mạng như vùng cát Phú Vang. Gia sản của vợ chồng thím cũng chỉ nơi đôi gánh trên vai, bán mấy gói hột nổ xanh đỏ, miếng xà bông, vài ba cặp đường... và mấy chục thước đất cát trồng ba hàng sắn, vài ba gốc mướp đắng quanh nhà thờ họ Mai mà chú làm thủ từ nên vì vậy mà vợ chồng thím được ở nhờ. Vậy mà quanh năm ngày tháng, suốt từ đầu năm 66 cho tới ngày tôi bị thương hè 68 năm ở nhà thím, suốt những tháng ngày tôi thường về Viễn Trình, mà đã về Viễn Trình thì đều ở nhà chú thím. Không lúc nào trong nhà thím vắng bóng du kích, cán bộ, bộ đội tới ăn ở. Cán bộ "quanh năm ngày tháng" là cán bộ làng xã, là cán bộ huyện, tỉnh và cả khu nữa xa cũng không lúc nào vắng bóng. Tôi ngạc nhiên không hiểu thím đào đâu ra gạo, thức ăn để "trường kỳ kháng chiến" nuôi cả "tập đoàn quân" như vậy. Cứ như tính toán của tôi thì nếu chỉ trông vào cái gánh hàng xép của thím thì e chỉ mắm với muối đã không đủ. Vậy mà xong hết. Không có gạo, thím chạy nhoáng đâu đó, "vay qua trả về" đâu đó, nhoáng ra bờ ao vồng sắn, rồi về nhoáng cái, mới nghe lửa lùng bùng dưới bếp, đã thấy thím với nụ cười hể hả bưng cái mâm gỗ sứt lên và hô anh em nhào vô ăn cho nóng.
Dạo đó cận Tết, thím kiếm đâu được một con gà trống để trước cúng kỵ ông bà, và sau là dọn cho anh em ăn Tết. Đùng cái một đơn vị quân Sài Gòn ào ạt đi càn. Đây là vùng "Việt Cộng gốc" nên lính mỗi lần tràn qua, được tự do tàn phá. Trưa ấy cả tiểu đội địch đóng ngay nhà thím. Bất ngờ, con gà trống quý giá mà thím đã cố giấu sát trên chái nhà thờ họ bỗng gáy toáng lên. Thế là diễn ra cuộc vật lộn thực sự giữa thím và mấy tên lính hám ăn. Con gà Tết "tan xác pháo": gãy cánh, đứt đầu, máu me phun đầy mặt bọn lính. Chúng ngao ngán quá, chào thua "mụ già Vi-xi" kinh khiếp. Chiều, anh em tới khi địch đã lui quân thì thấy thím đã bày đủ các món gà ra, vẫn nụ cười quen thuộc thôi tụi bay ăn Tết trước vậy! Có điều, ngó mãi không thấy đầu gà đâu cả. Thím cười trơ hàm răng sún: bọn đói trăm năm nớ bỏ vô bọc dong rồi!
T.N.V
(TCSH72/02-1995)
NGÔ THỊ Ý NHI
Ở Huế, có những buổi sáng cứ thích nằm nghe tiếng con nít rủ nhau đến trường ríu rít như chim. Bình yên đến lạ! Thành phố nhỏ bé, nhịp sống không vội vàng, những con đường hiền lành, êm ả trẻ con dễ dàng đi bộ.
Kỷ niệm 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2019) và 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2019)
PHẠM THUẬN THÀNH
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Năm Nhâm Tý (1672), chúa Trịnh xua 180 ngàn quân vào Nam, có ý vượt sông Gianh đánh chúa Nguyễn. Trấn thủ Bố Chính là Nguyễn Triều Văn hoảng sợ chạy vô Kim Long cấp báo với Hiền Vương (tức chúa Nguyễn Phúc Tần).
TÔN THẤT BÌNH
BÙI KIM CHI
Ngày xưa, cách đây 60 năm, ở đường Duy Tân Huế từ cầu Trường Tiền đi xuống, qua khỏi Morin (cũ), đi một đoạn, có một địa điểm mang cái tên nghe là lạ Ngọ Phạn Điếm. Càng lạ và đặc biệt hơn nữa, Ngọ Phạn Điếm chỉ đón khách vào ăn một bữa trưa (demi-pension) trong ngày là học sinh của Trường Nữ Trung học Đồng Khánh Huế mà thôi.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Bút ký
KỶ NIỆM 20 NĂM CƠN LŨ LỊCH SỬ 1999
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
NGUYỄN DƯ
Ngày xưa thi đỗ tiến sĩ… sướng lắm!
Nghe đồn như vậy. Ít ra cũng được vua biết mặt chúa biết tên. Được cả làng, cả tổng đón rước về tận nhà. Chữ nghĩa gọi là rước tiến sĩ vinh quy bái tổ.
PHI TÂN
Hồi trước, khi làng xã tôi còn đoàn đội tập thể hay hợp tác xã sản xuất nông nghiệp thì đàn trâu ở làng cũng của hợp tác luôn. Trâu được các hộ xã viên nhận về nuôi để ăn chia công điểm. Nhà mô có nuôi trâu thì con cháu trong nhà phải nghỉ học sớm để chăn trâu hàng ngày.
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Ngày thơ ấu tôi đã bao lần ngủ ngon giấc trong lời ầu ơ của mẹ:
Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019) và 50 năm Ngày mất của Người (02/09)
HỒ NGỌC DIỆP
Kỷ Niệm 72 Năm Ngày Thương Binh - Liệt Sĩ (27/7/1947 - 27/7/2019)
PHẠM HỮU THU
DƯƠNG PHƯỚC THU
Nhà thơ, nhà cách mạng Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại làng Hội An, nơi xưa kia thường gọi là Faifô (vì làng này ở gần cửa Đại An nên quen gọi Hải Phố mà ra thế) nay Hội An đã lên cấp là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam; quê nội Nguyễn Kim Thành ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Dáng thế của đồi Hà Khê như một con linh thú vừa tách khỏi đất mẹ, rời tổ uống mấy ngụm nước bên bờ dòng Linh Giang. Quay đầu hướng về quê mẹ, đất tổ Trường Sơn như một lời từ biệt, lòng rộn buồn vui. Một nhát gươm chí mạng của thuật sĩ Cao Biền, thân thú mang nặng vết thương vẫn còn hằn sâu ở chân đồi.
ELENA PUCILLO TRUONG
(Viết cho những người bạn cầm phấn)
Kỷ niệm Ngày báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6
NGUYỄN XUÂN HẢI
ĐÔNG HÀ
33 năm đổi mới trong Văn học Thừa Thiên Huế
NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Một chiều cuối năm 2018, tôi nhận được tấm thiệp mời nhân dịp Lễ mừng tuổi chín mươi của nhà giáo Trần Thân Mỹ và kỷ niệm 65 năm ngày cưới của ông bà Trần Thân Mỹ và Dương Thị Kim Lan. Nếu tính từ mốc tôi được ông đặt bút ký vào hồ sơ chuyển ngành từ Quân đội về làm việc tại Phòng Văn hóa Thông tin (VHTT) thành phố Huế là tròn 35 năm, trong đó có 7 năm (1983 - 1990) tôi được làm việc trực tiếp với ông trước khi ông nghỉ hưu. Ông là vị thủ trưởng khả kính đầu tiên của tôi, là người đã giáo dục, đào tạo và có ảnh hưởng rất lớn đối với tôi.
VŨ SỰ
Ngày xưa, chuyện “chồng già vợ trẻ” cũng là chuyện thường tình. Xứ Huế đầu thế kỷ 20, cũng có những chuyện thường tình như thế. Nhưng trong những chuyện thường tình ấy, cũng có vài chuyện “không thường tình”, ngẫm lại cũng vui.