Tranh Đông Hồ - Ảnh: TL
Muốn hiểu vì sao người xưa có quan niệm kỳ cục như vậy, phải lật chồng sách cũ tra cứu. Sách Nhĩ nhã, thiên Thích thiên ghi: Thái tuế tại tý viết khốn đốn. Xin chớ hấp tấp hiểu khốn đốn theo nghĩa đương đại, như khốn đốn là cuối tháng chạy quanh ứng tiền tiêu tạm! Phải tìm đến ngữ nguyên (sens étymologique) của nó: hỗn mang. Lại được thấy câu: Thiên khai ư tý, địa tịch ư sửu, nhân sinh ư dần. Thì ra, người xưa chọn chuột – giống vật sống lẫn lút chui rúc trong hang hốc, giữa tranh tối tranh sáng để biểu tượng cho thời kỳ đất trời hỗn mang, khi âm dương chưa định, tối sáng chưa phân. Cũng thật tình cờ, tác phẩm văn học chữ nôm cổ nhất còn giữ được trong văn học nước ta lại viết về chuột: Trinh thử. Đó là một truyện thơ dài 850 câu của Trần triều xử sĩ Hồ Huyền Quy. Chuột bạch góa chồng đi kiếm mồi nuôi con, một hôm, bị cơn gió lốc, chuột bạch chạy nấp trong hang gần đấy. Không ngờ trong hang có một chuột đực. Nhân lúc chuột cái đi vắng, chuột đực toan giở trò tán tỉnh sàm sỡ. Chuột bạch cự tuyệt, liều chết bảo toàn trinh tiết. Đang lúc, chuột cái về. Ngờ chồng và chuột bạch thông dâm, chuột cái nổi cơn tam bành. Chuột bạch hết lời minh oan rồi ra về. Nhưng chuột cái không tin, thân đến hang chuột bạch đánh ghen. Bất ngờ mèo xuất hiện, chuột cái hốt hoảng ngã tỏm xuống ao. Tác giả là Hồ Sinh – vốn biết tiếng chim muông và nghe lọt câu chuyện – liền đuổi mèo, vớt chuột cái rồi lấy lời phải trái giải phân, ca tụng tấm lòng trinh tiết của chuột bạch. Truyện thơ ngụ ngôn Trinh thử vừa kín đáo bộc lộ tâm sự của tác giả - quyết giữ lòng cổ trung với triều Trần sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, vừa là bài học luân lý cho người đời. Nhưng không hiểu sao tác giả lại chọn loài chuột làm nhân vật của mình? Muốn biết qua giòng họ nhà chuột, hãy đọc Hịch bắt chuột của cụ Đồ Chiểu. Tuy chẳng phải nhà sinh vật nhưng cụ Đồ Chiểu tỏ ra rất am hiểu lý lịch nhà chuột: Lông mọc xồm xoàm, tục kêu xà lắt Tánh hay ăn vặt; lòng chẳng kiêng dè Chỗ ở ăn hang lỗ nhiều bề Đường qua lại đào soi lắm ngách Nghe hơi động vội vàng lĩnh mất, nhát quá mẹ cheo. Chờ đêm khuya sẽ lén lút ra, liếng hơn cha khỉ. Gọi danh hiệu: chuột xạ, chuột lắt, chuột chù, chuột cống anh em giòng họ nhiều tên. Tra quán chỉ: ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở ngòi bầu bạn non sông lắm lối. Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm tối biết bao. Thật ra, nhà thơ nêu có bốn giống chuột lại trùng hết hai. Xạ và chù chỉ là một. Có thể bổ sung thêm: cơm, đồng, chũi, cà xốc, bạch, dừa, ấn… Đấy cũng chỉ là những giống chuột gần gũi với dân ta. Bạn nào ham đọc cổ văn nên lưu tâm đến mấy giống chuột “Tàu” sau đây. Chúng đã được dùng như những biểu tượng có giá trị điển cố trong văn học Trung Quốc cổ cận đại: Tương thử, giống chuột ở đất Tương thuộc tỉnh Hà Đông. Thỉnh thoảng, Tương thử lại đi bằng hai chân sau. Người Trung Quốc cho việc chuột đi như người là vô lễ. Từ đó, kẻ vô lễ gọi là Tương thử! Ngược với Tương thử có Lễ thử. Giống chuột này biết lo xa, thường đào hang cất giấu, tích trữ lương thực lại nhiều tự ái, biết giữ “tiết lễ”. Chúng sẽ tự sát hàng loạt nếu hang ổ bị xâm phạm. Đến đây, không thể không nhớ đến bút ký của ông Wells- nhà sinh vật nổi tiếng người Anh. Ông có những trang miêu tả hàng vạn con chuột điên cuồng lao đầu xuống nước tự trầm. Nhưng hẳn người Anh chẳng bao giờ phong cho những con chuột ấy danh hiệu Lễ thử như người Trung Quốc! Trong thiên Khuyến học, Tuân Tử nhắc đến Ngô thử - giống chuột thường sống dưới cây ngô đồng. Theo Tuân Tử, Ngô thử còn có tên Ngũ kỹ thử, nghĩa là giống chuột có đến năm tài. Nhưng khổ thay, chẳng có tài nào của Ngô thử đến nơi đến chốn: biết bay nhưng không bay quá tường thấp, biết trèo nhưng không trèo suốt thân cây, biết bơi nhưng không bơi qua khe hẹp, biết chạy nhưng không chạy nhanh hơn người, biết đào hang nhưng không đủ sâu để giấu mình. Tuân Tử lấy Ngũ kỹ thử để răn những kẻ nhiều nghề cá trê húp nước. Trở lại văn học nước ta, chuột được dùng trong danh từ, thành ngữ, tục ngữ không thiếu gì. Khi thì dựa vào hình dạng như dưa chuột, loại dưa trái dài, thon giống mình con chuột. Đuôi chuột, chiếc rễ cái của cây đâm thẳng xuống đất. Chuột rút, tình trạng cơ co rút vì hoạt động quá nhiều, các chất bã không kịp lưu chuyển bằng sự hô hấp. Bắt chuột, trò chơi của trẻ con, dùng ngón cái và ngón giữa bấm vào bắp thịt cánh tay rồi giật mạnh, bắp cơ nổi lên một cục bằng chú chuột con. Tất nhiên là giật trên cánh tay của bạn, vì trò chơi này đau đến chảy nước mắt! Khi thì ví von: Lủi như chuột, ướt như chuột lột, len lét như chuột ngày, đầu voi đuôi chuột, cháy nhà bày mặt chuột, chuột sa chĩnh gạo, chuột gặm chân mèo, lù đù như chuột chù phải khói… Chuột có dáng loắt choắt, bộ dạng len lét, đôi mắt láo liếng, hôi hám bẩn thỉu lại chuyên cắn phá mùa màng, áo quần nên thường để chỉ hạng người ti tiện đáng khinh trong xã hội. Tư đồ Vương Doãn trong Tam quốc chí gọi bọn tướng sĩ đất Quan Đông Hồ Văn Tài và Dương Chỉnh Tu là “Quan Đông thử tử”. Về sau, câu này trở thành thành ngữ chỉ hạng người bất tài: Lũ chuột nhắt ở Quan Đông! Trong ca dao Việt Nam, chuột – nhất là chuột chù- đã trở thành một hình tượng độc đáo. Hoặc chỉ kẻ xấu không biết mình xấu lại chuyên bươi móc người khác: Chuột chù chê khỉ răng hôi Khỉ toét miệng cười: “cả họ mày thơm” Hoặc những người không tự biết mình, đòi hỏi những điều mà mình không đáng được hưởng: Chim chích mà đậu cành sòi Chuột chù trong ống đòi soi gương Tàu Nguyễn Hữu Chỉnh vào Nam ra Bắc, vẫy vùng ngang dọc một thời. Khi thất thế về quê ở Nghệ An, Chỉnh bị một nhóm vô danh tiểu tốt vây bắt nộp cho vua Lê. Chỉnh may thoát được. Tục truyền rằng vì vậy trong dân gian có câu hát: Đi cùng bốn bể chín chu Trở về xó bếp chuột chù gặm chân Thật oái ăm, các vị đỗ hương thi từ đời Lê trở về trước có danh xưng đồng âm với tên của một giống chuột to con, xấu xí: ông cống – chuột cống. Vì thế, trong bộ tranh tết, người nghệ sĩ dân gian làng Hồ có bức vẽ một chú chuột ngồi trên kiệu do một đàn chuột khiêng hầu với đủ cờ quạt tán lọng xanh đỏ và cả tấm biển “Ân tứ vinh quy” của vua ban nữa. bức tranh góp phần châm biếm chế độ khoa cử đương thời, cũng như một nhà thơ khuyết danh viết bài vịnh con mèo, có mấy câu ẩn dụ rất thú vị như sau: Chí quyết phen này vồ lấy cống Rồi lên đài các sẽ nghêu ngao! Trong văn học hiện đại chuột vẫn còn là một hình tượng độc đáo trong thơ ngụ ngôn của La Fontaine, truyện của Tô Hoài, John Steinbec, Albert Camus. Nhưng từ xưa đến nay, ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt, trong văn học, chuột vẫn là hình tượng xấu xa cần trừ khử. Bởi lẽ trong thực tế, chuột là một giống vật độc hại. Mỗi năm, có hàng vạn người trên thế giới chết vì bệnh dịch hạch do chuột gây ra. Chuột phá hoại lương thực, mùa màng không kể xiết. Chuột ăn luôn miệng và có thể ăn từ 200 đến 400 gram lúa một ngày. Đã thế, chuột lại mắn đẻ, từ 9 đến 10 lứa một năm, mỗi lứa từ 6 đến 22 con! Một trong những tác phẩm văn học sớm nhất của loài người, Kinh thi, đã có nhiều bài, nhiều câu nói lên hiểm họa chuột. Nhưng qua đó, người dân Trung Quốc còn gửi gắm tâm sự căm ghét bọn quan lại phong kiến bóc lột, mọt đục dân đen. Xin giới thiệu bài Chuột xù: Chuột, chuột xù kia ơi Lúa tao cắm mãi thì thôi từ rày Bao năm đã nuôi thân mày Nào mày có biết tao đây người nào Bỏ mày tao sẽ liệu tao Tao đến nơi nào là đất yên vui Đất yên vui! Đất yên vui! Mong ra nơi ấy tao thời yên thân Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu kể tội loài chuột cụ thể hơn: Túi Đông Pha thường bữa tha gừng Ruộng Đông Quách ghe phen cắn lúa Nếp gạo của trời nuôi mạng, ăn phá rồi còn kéo xuống hang Nệm mền của chúng che thân, cắn nát rồi lại tha vào lỗ Hoặc nằm ngửa cắn đuôi tha trứng vịt, gây nên thằng tớ chịu đòn oan Hoặc leo dây ngóng cổ gặm giò heo để tiếng con đòi mang tiếng khổ. Và tỏ ra quyết liệt trong việc diệt chuột, không cam chịu và trốn lánh như người nông dân Trung Quốc trong Kinh thi. Chớ để con nào sa lậu, phải ra tay lấp lỗ tam bành Đừng cho chúng nó sẩy ra, phải hết sức trừ đồ lục tặc! Giống chuột chưa bị tuyệt diệt trong hang ngách cũng như trong cuộc sống. Nhưng nhân dân ta không còn sợ loài phá hoại tinh ranh, không còn vừa ghê tởm vừa phải gọi chúng bằng “ông”: ông thiêng, ông tý… Xin dán trước ngõ câu đối cổ để đón xuân mới và cũng để khép lại bài phiếm luận đầu năm này: Năm tý, loài người không sợ gì ông chuột Năm chuột, loài người không sợ gì ông tý. V.Q. (5/2-84) |
PHAN TRỌNG HOÀCó thể khảo sát nghĩa của tục ngữ từ góc độ văn bản hoặc góc độ ứng dụng. Ở nước ta, việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ trong quá trình sử dụng không phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng so với xu hướng này thì việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ ở trạng thái ổn định trên văn bản đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thật khó khẳng định rằng trong hai cách xem xét trên thì cách nào là quan trọng hơn, vì nó không chỉ phụ thuộc vào đặc trưng thể loại của đối tượng được nghiên cứu mà nhiều khi còn tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng loại đề tài và nói chung là tuỳ thuộc vào nhu cầu của hoạt động thực tiễn. Điều đáng lưu tâm là ở chỗ, khi mình đã lựa chọn hướng tiếp cận này thì đừng vì thế mà phủ nhận hướng tiếp cận kia.
TRẦN ANH PHƯƠNGĐi chơi gặp vịt cũng lùagặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu (Ca dao)
VIỆT CHUNGTrong 12 con giáp, con dê (Mùi còn gọi là Vị) là con vật đứng vào hàng thứ 8, trước khỉ và sau ngựa. Dê tên chữ là Dương.Dê vốn là con vật miền núi, được thuần hoá nên có thể nuôi trong nhà. Hình ảnh con dê gây được những ấn tượng với người đời một cách khó quên. Đặc biệt của loài dê là dê đực hoặc dê cái đều có râu và có sừng, bản chất hiền lành và tràn đầy sinh lực.
TRIỀU NGUYÊNHiện tượng cùng âm xảy ra khi cùng một tổ hợp âm thanh nhưng có nhiều ý nghĩa khác nhau tương ứng, trong cùng một ngữ cảnh. Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm có thể chia làm hai loại: lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn; dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm; đồng thời, dạng cùng âm có yếu tố tên riêng cũng được xét như một loại đặc biệt.
PHẠM THỊ ANH NGATheo quan niệm thông thường, phép lịch sự bao giờ cũng có tính ưu đãi đối với tha nhân: dành cho kẻ khác một tầm quan trọng và thái độ trân trọng hơn là đối với chính bản thân. Nhưng cũng tuỳ từng nền văn hoá, mà giữa hai bên tương tác có sự cân bằng tương đối về vai vế hay không. C. Kerbrat-Orecchioni phân biệt: (1) Những xã hội ở đó quyền lợi giữa hai bên giao tiếp tương đối ngang nhau; (2) Những xã hội xem đối tượng tương tác (A: allocutaire) có được nhiều quyền ưu tiên hơn bản thân người tương tác (L : locuteur).
TRIỀU NGUYÊN1. Câu tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại" được sách Kho tàng tục ngữ người Việt (Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân; Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002) (KT), tr 75, ghi lại, trên cơ sở 12 đầu sách có chép nó.
NGUYỄN ĐỨC TĂNGCũng như ca dao, những câu hò trong dân gian thuộc loại văn chương bình dân nên rất phổ cập trong dân chúng. Tác giả của nó có thể là những nhà thơ dân gian, thường không lưu lại tên tuổi như những nhà thơ của văn học thành văn, nhưng cũng đóng góp đời mình vào sự phát triển của ngôn ngữ thơ ca trong lãnh vực văn chương bình dân.
TÔ VĨNH HÀNhỏ nhất như con chuột và kiêu dũng nhất như con rồng, mười hai con giáp trong lịch can - chi vẫn mãi thôi thúc lẽ nghĩ suy của muôn vạn kiếp đời trong cái nghiệp tận hằng của sự hiểu và cả “sự” làm người.
TRẦN ĐÌNH SỬNgười mù đều rất đôngTranh nhau nói sự thậtVoi vốn chỉ một thânThị phi lại bất đồng…
TRIỀU NGUYÊNI. Khái quátXem xét cách sử dụng hình ảnh của một thể loại văn học là yêu cầu cần có khi tiếp cận thể loại ấy. Tình hình nghiên cứu thể loại câu đố có nhiều hạn chế so với các thể loại khác của văn học dân gian, trong đó, có vấn đề hình ảnh.
TRIỀU NGUYÊN
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGCho đến nay, đã có các công trình sưu tầm và biên soạn truyện cổ Tà Ôi khá đầy đặn về văn bản. Qua các công trình nầy chúng ta thấy rằng người Tà Ôi sinh sống trên dãy Trường Sơn, quần cư chủ yếu trên địa bàn hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đang lưu giữ một kho tàng tri thức phong phú về văn học dân gian mà trong đó thể loại An xoar (chuyện cổ tích) là một thí dụ điển hình.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGNgười Tà Ôi ở Việt Nam thật sự đã có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú với các thể loại: Ca dao (Pracăm), câu đố (Pralau), truyện cổ dân gian (Axoar), tục ngữ và dân ca.
TRIỀU NGUYÊN Chùm Truyện ngụ ngôn
HẢI TRUNGVào thời Hán, ở Trung Quốc, có một vị tướng tên là Đậu Thao, do phạm trọng tội nên bị vua Hán đày biệt xứ ra biên ải. Vợ của tướng quân này là Tô Huệ là một phụ nữ bình dân sống bằng nghề dệt lụa. Từ ngày Đậu Thao bị đày ra biên ải, ngày đêm vò võ ngóng tin chồng, nhưng ngày tháng cứ nối nhau qua mãi mà vẫn biệt âm vô tín.
TRIỀU NGUYÊN 1.Trong cấu tạo nhan đề của thơ văn Hán Nôm, ở dạng danh ngữ, có hai hình thức thường gặp: danh từ trung tâm biểu thị thể loại (như: Hịch tướng sĩ văn - Trần Quốc Tuấn, Ngọc tỉnh liên phú - Mạc Đỉnh Chi, Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô Gia văn phái, Hạ Châu tạp thi - Cao Bá Quát,...).
TRIỀU NGUYÊN(tiếp theo)