NGUYỄN THIỆN ĐỨC
Ảnh: internet
Ánh sáng của đêm thẳm
có cần phải nói ra điều đó không em
có cần phải nói ra rằng những đóa hoa kia nó mê hoặc
không phải ở sắc màu mà là ở hương vị hiến dâng
có cần phải nói ra rằng
lẩn tránh chính là đối diện một cách thầm lặng
có cần phải nói ra như vậy không
hỡi mùa thu xa thẳm?
thân xác sinh ra không phải để hiến dâng mà là đôi mắt
thân xác không đủ khả năng hiến dâng
ngay cả trái tim dẫu có quyền hạn và phép mầu đến đâu
cũng không thể có “ngôn ngữ hiến dâng”
chỉ có đôi mắt mới đủ sức hiến dâng bằng sự dốc cạn
chỉ có đôi mắt mới đủ sức dốc cạn cho sự hiến dâng
tình yêu không phải là thứ âm thanh ngân lên từ rỗng không
sự ngăn cách đã nối tình yêu chúng ta lại bằng sự im lặng
sự ngăn cách đã nối tình yêu chúng ta lại bằng sự nhớ nhung
giống như ánh sáng đã nối mặt trăng với mặt trời
giống như ánh sáng đã nối mặt trời với muôn vì sao
nhưng ánh sáng của vầng trăng không phải do mặt trời
mà là đêm thẳm
có cần phải nói ra như thế không em
hỡi mùa thu xanh thẳm?
Sự sâu thẳm của bóng đêm
quấn đêm lại thật chặt
và nằm ngủ một mình trong cô đơn thênh thang
chẳng cần cài nút
bóng tối quá rộng không đủ chỗ cho nỗi buồn lăn trở
khiến côi cút lòi chân ra ngoài
cảm thấy lạnh run
giờ mới hiểu nổi vì sao
mặt trời luôn cóng run bởi sức nóng của mình
trên bờ mi thăm thẳm của im lặng
những giọt nước mắt từ tận đáy tiếng khóc
rừng rựng lăn ra
đọng lại trên khuôn ngực ánh sáng
… tấp vào một sa mạc rực rỡ óng vàng
sau khi gắng sức để bơi qua vùng da thịt trắng nõn của đêm tối
đôi mắt rào rạt đẹp mê hồn của nàng ngước lên dưới ánh trăng như một đại dương mênh mông
trinh khiết khỏa thân
mùi hương của những cơn sóng hừng hực
sao?... sự cao quý không cho phép hay lòng tự trọng
nhưng nỗi đau đã kịp cuối xuống bọc lấy niềm ngạo mạn ngất ngưởng của ta như bọc lấy một đứa trẻ
nàng quá rạng rỡ trong trái tim tôi
giống như đêm tối đã rạng rỡ bởi sự sâu thẳm
giống như nỗi buồn đã rạng rỡ bởi những giọt nước mắt
guộn nhớ thương lại
như hoàng hôn cuộn lại ánh ráng
nằm nghe ánh trăng ngoài kia du dương
… “chỉ có những giọt nước mắt thực sự mới có thể lau khô được nỗi buồn”…
(TCSH357/11-2018)
LTS: Với một tờ báo, chắc hẳn niềm vui mừng trước hết là nhận được những bản thảo chất lượng. Nhưng cũng không vì vậy mà chúng tôi không trân trọng những bài viết chưa đạt tới “tiêu chí” Sông Hương. Giới hạn trong lĩnh vực thơ: Có không ít tác giả hầu như tuần nào, tháng nào cũng gửi từ ba bốn bài trở lên. Đều đặn bao nhiêu năm trời như thế, tính ra số thơ mà chúng tôi nhận được của họ đã có thể đóng thành một “tổng tập”. Những trang chữ viết tay, những trang vi tính quen thuộc đến mòn mắt ấy mỗi lần nhận được là chúng tôi lại hồi hộp đọc, để rồi… áy náy!Dưới đây là những bài gần như khá nhất trong số thơ lai cảo của Sông Hương.
Thạch Quỳ - Nguyên Quân - Đông Hà - Kiều Trung Phương - Nguyên Hào - Lê Quốc Hán - Đinh Thu - Hoàng Thị Thiều Anh - Nguyễn Phước Loan
...nghe thanh âm mà không có tiếng ngườisao khép mắt mà không thể chết được...
Từ Nguyên Tĩnh - Lê Huỳnh Lâm - Nguyễn Thiền Nghi - Trần Hữu Lục - Mai Thìn - Cao Hạnh - Văn Công Hùng - Trần Tuấn - Nguyễn Ngọc Phú - Đức Sơn - Trần Vạn Giã - Trần Cao Sơn - Lê Hữu Khoá - Trần Hoàng Phố - Phạm Thị Anh Nga
Đất nước đã vẹn toàn một mối hơn ba mươi năm, song còn đó những nỗi đau âm ỉ, thấm vào cốt xương của thân nhân các thương binh - liệt sĩ, thấm vào máu thịt của những ai từng kinh qua hoặc không kinh qua chiến tranh mà nay đều được hưởng cuộc sống yên bình. Kỷ niệm 60 năm ngày thương binh liệt sĩ(27/7/1947 – 27/7/2007), Sông Hương xin nghiêng mình trước nỗi đau không hề ngẫu nhiên đã thấm vào thơ ấy… *Nguyễn Gia Nùng - Triệu Nguyên Phong - Trần Đức Đủ - Huỳnh Tuấn Vinh
Vân Long là tạng người thơ không chịu cũ. Nhà thơ luôn ý thức được việc làm mới mình để có thể đồng hành với nền thơ đương đại và nhịp thở nóng hổi của cuộc sống thường nhật.Dù là trữ tình tự sự hay nội cảm ngoại quan, thơ Vân Long luôn để lại những dấu ấn sáng tạo - dấu ấn lao động thơ. Vân Long đã từng có duyên với xứ Huế qua “Đêm sông Hương”, “Vườn Huế”... được tuyển chọn trong Tuyển thơ Sông Hương 20 năm...
khi em là vực sâu im lặng tôi pho tượng đá lắng nghe...
...chim chích bay về đăm đắm mắtnghe phế hưng bông lơn ký ức thành xanhrêu...
Nguyễn Văn Quang - Trần Thu Hà - Nhất Lâm - Lê Ngã Lễ - Mai Văn Hoan - Ngàn Thương - Ngô Thị Hạnh - Nguyễn Thánh Ngã - Xuân Thanh - Phan Văn Chương - Thạch Thảo - Trần Đôn - Nguyễn Nhã Tiên - Đoàn Lam - Tiến Thảo - Đoàn Giao Hưởng
...Cả thành phố lúc nào cũng rậm lờiAnh không thấy tấc vỉa hè nào dành cho mình cả...
...họ mơ thấy Hồ Gươmlà một vò rượu lớnbị bỏ quênbên sông Hồng đến cả ngàn năm...
Mai Văn Phấn - Hoàng Chinh Nhân - Lê Huỳnh Lâm - Ngô Thiên Thu - Bùi Đức Vinh - Nguyễn Hoa - Hoàng Nguyệt Xứ - Lê Hưng Tiến - Phạm Xuân Trường - Ngô Công Tấn - Từ Hoài Tấn - Văn Lợi - Quang Tuyến - Nguyễn Loan - Lê Vĩnh Thái - Vĩnh Nguyên - Hoàng Ngọc Quý
HUỲNH THÚY KIỀUHọ và tên: Huỳnh Thuý Kiều; Cầm tinh con Ngựa - 1978Bút danh: Hoa Đồng Nội. Nơi làm việc: Nhà xuất bản Phương Đông tỉnh Cà MauĐã có tuỳ bút, tản văn, đặc biệt là thơ đăng trên các báo Trung ương và địa phương. http://huynhthuykieu.vnweblogs.com
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOSinh năm: 1979Quê quán: Hà TĩnhTốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Khoa học HuếHiện là biên tập viên tạp chí Đà Nẵng ngày nayhttp://nguyenthianhdao.vnweblogs.com
Trần Thị Huê, sinh năm 1970 ở Hiền Ninh - Quảng Ninh - Quảng Bình. Năm 1997 xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí Nhật Lệ với chùm thơ 3 bài Chiều, Đợi, Cỏ xanh. 5 năm sau chị xuất bản tập thơ đầu tay Sóng vọng. Nhưng phải đợi đến những năm gần đây gương mặt thơ chị mới hiển lộ với những đường nét vụt hiện, gấp khúc. Cái - tôi - cá - thể đã làm giàu thêm mục đích và ý nghĩa sáng tạo nghệ thuật.
Bạch Diệp - Vi Thuỳ Linh - Phan Huyền Thư - Phùng Hà - Nguyễn Thị Hợi - Hồng Vinh - Đông Hà - Nguyễn Thị Thái - Hoàng Thị Thiều Anh - Đinh Thị Như Thuý - Nguyễn Thị Thuý Ngoan - Thạch Thảo
...Vắt qua bầu trời mờ cánh chim nhỏVắt ngang dòng sông trổ nụ hồngVắt ngực tình em bay hương cỏVắt suốt mùa đợi một ngóng trông...
Nguyễn Trọng Tạo - Tường Phong - Trần Áng Sơn - Nguyễn Thánh Ngã - Ngô Hữu Đoàn - Nguyên Quân - Nguyễn Thành Nhân
HÀ NHẬTLTS: Lớp học sinh niên khóa 1964-1967 ở Trường Cấp 3 Lệ Thủy, Quảng Bình 40 năm trước đã sinh ra hàng chục nhà thơ, trong đó có những người đã thành danh như Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Hải Kỳ, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty... Công lao bồi dưỡng, vun đắp nên những nhà thơ đó là hai thầy giáo dạy văn cực giỏi: Lương Duy Cán và Phan Ngọc Thu.
...Lão du - già xát đầy mình tro tử thi vừa nguộiƯớp xác phàm bằng hương liệu sắc - không...