Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số vấn đề văn hóa văn nghệ

10:17 26/09/2023


NGUYỄN VĂN HẠNH

Ảnh: chinhphu.vn

Việc dành ưu tiên cho khái niệm tính nhân dân trong hệ thống quan điểm lý luận nghệ thuật và mỹ học của Chủ tịch Hồ Chí Minh chứng tỏ sự nhạy cảm và sự hiểu biết sâu sắc của Bác không chỉ về tính chất của cách mạng Việt Nam trong những điều kiện xã hội lịch sử nhất định, mà còn về bản chất của văn học nghệ thuật cách mạng.

Thực tế và thời gian ngày càng chứng tỏ sự giản dị và quan điểm "truyền thống" của Bác lại chính là sự sáng suốt, tính nguyên tắc và sự tinh tế trong cách xem xét các vấn đề văn hóa nghệ thuật.

Xem văn hóa văn nghệ là một hoạt động thực tiễn, một hoạt động mang tính nhân dân sâu sắc, đương nhiên Bác không quan niệm văn hóa văn nghệ là một hiện tượng tĩnh tại với những yêu cầu, những phẩm chất cố định. Sự phát triển của văn hóa văn nghệ gắn liền với sự phát triển của xã hội, của thực tiễn cách mạng, của trình độ dân trí và nhu cầu của nhân dân về văn hóa nghệ thuật. Điều này thể hiện rõ ở các luận điểm của Bác: "Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy" từ cái phổ biến ấy, cái nền ấy mà nâng cao lên, làm cho văn nghệ của ta "ngày càng phong phú về tư tưởng và nghệ thuật". Trong bài nói chuyện tại Đại hội II của Hội Nhà báo Việt Nam, Bác có nhắc lại với thái độ tán thành ý kiến của một phóng viên Liên Xô là khi sinh hoạt của nhân dân đã cao hơn, cần phải viết khác chứ không phải lúc nào cũng ngắn gọn, thiết thực; "Chớ viết khô khan quá. Phải viết cho văn chương. Vì ngày trước khác, còn bây giờ khác, sinh hoạt đã cao hơn, người ta thấy hay thấy lạ, thấy văn chương thì mới thích đọc".

Trong quan niệm của Bác về sự phát triển của văn hóa nghệ thuật, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhân dân, thật ra có hai phương diện, hai quá trình gắn bó với nhau, tạo điều kiện cho nhau: nghệ thuật phải được nhân dân hiểu và nhân dân phải hiểu được nghệ thuật. Đó phải là quan điểm của cách mạng về nghệ thuật, quan điểm của người nghệ sĩ cách mạng sáng tạo ra tác phẩm và của quần chúng cách mạng tiếp nhận tác phẩm đó. Cả người sáng tạo và người tiếp nhận phải là chủ thể tích cực, chủ động, có ý thức đến với nhau, và cùng phấn đấu vươn tới những đỉnh cao giá trị. Câu nói của Lênin về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhân dân được Clara Xetkin dẫn lại mà gần đây giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu lại có lẽ cũng nên được nhận thức theo một tinh thần cách mạng và biện chứng như vậy,

Ngoài những vấn đề có ý nghĩa như nguyên tắc, như văn hóa nghệ thuật phải phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó v.v... thông thường khi bàn về văn hóa nghệ thuật, Bác không trình bày các ý kiến của mình như là chân lý hoặc những yêu cầu bắt buộc, mà như là phương pháp suy nghĩ và hành động, như những kinh nghiệm và lời khuyên. Ngay khi nêu một vấn đề quan trọng như phổ biến và nâng cao, Bác cũng nói: "Nêu ra để các cô các chú thảo luận". Đối chiếu thơ xưa và thơ nay Bác nêu lên ý kiến về thơ nay mà mọi người đều biết:

Hiện đại thi trung ưng hữu thiết
Thi gia dã yếu hội xung phong

(Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong)

Ở đây suy nghĩ về thơ được trình bày như một mong muốn, một lời khuyên. Không nên cường điệu ý kiến này thành quan điểm chỉ đạo, thành "tuyên ngôn" về thơ hiện đại nói chung. Một mặt, Bác không hề phủ nhận hoặc chê bai loại thơ xưa "yêu cảnh thiên nhiên đẹp", mà chỉ ghi nhận một thực tế, nói lên một nhận xét, mặt khác Bác không đòi hỏi rằng thơ nay phải là thơ "có thép", chỉ có thể là thơ "thép", hoặc đã là nhà thơ thì phải "xung phong". Đây lại thêm một bằng chứng về quan niệm rất uyển chuyển của Bác về văn nghệ, một quan niệm luôn luôn tôn trọng sự suy nghĩ của người khác, tôn trọng sự đa dạng, phong phú của nghệ thuật.

Một số nhà nghiên cứu đã nêu câu hỏi: Tại sao trong lý luận mác-xít về văn học nghệ thuật mấy mươi năm qua luôn luôn nhấn mạnh các vấn đề như tính đảng, phương pháp sáng tác, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn cách mạng, hiện thực xã hội chủ nghĩa... nhưng Bác lại hầu như không đề cập các khái niệm này trong các bài phát biểu của mình về văn học nghệ thuật.

Trước hết phải nói rằng ý kiến của Bác khá đủ để hướng dẫn nghệ sĩ đi trên con đường lớn của văn nghệ cách mạng và những ý kiến này đều được dễ dàng mọi người chấp nhận. Điều này cũng chứng tỏ rằng có thể có một cách nói khác, thông qua những khái niệm và phạm trù khác, để nói về những vấn đề then chốt và cần thiết nhất của văn hóa văn nghệ. Những nhà lý luận chuyên nghiệp không thể không suy nghĩ về thực tế này.

Cũng có thể với tư cách của một nhà chính trị, một nhà lãnh đạo Đảng, Bác không có điều kiện và cũng không muốn đi sâu vào những vấn đề chuyên môn, những vấn đề khoa học của lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Trong những vấn đề đã nêu ở trên có vấn đề có thể nói dưới một dạng khác như vấn đề tính đảng, có những vấn đề không nhất thiết người lãnh đạo chính trị phải đề cập như vấn đề phương pháp sáng tác, vấn đề chủ nghĩa hiện thực, hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cách nói uyển chuyển "dân dã" của Bác, cũng như sự "dừng lại" của Bác trước những vấn đề nghề nghiệp chuyên sâu như vậy - càng chứng tỏ Bác là một nhà lãnh đạo chính trị sáng suốt, hiểu rõ công việc của mình.

Bác viết văn, làm thơ nhiều, và có nhiều tác phẩm thơ văn xuất sắc. Nhưng tự mình, Bác không nhận mình là một nhà thơ, một nhà văn nghệ. Có lần Bác nói "Nếu quả thực tôi là một nhà thơ, hẳn tôi không thể sống mà không sáng tác... Còn tôi... tôi có thể sống thoải mái mà không cần phải làm thơ. Và trước khi ở tù, cũng như sau khi ra tù, tôi đã sống mà không làm thơ"(1). Một lần khác Bác lại nói về mình: "Tôi là cây bút tiểu phẩm, nhà chính luận, gọi tôi là người tuyên truyền tôi cũng không tranh cãi, nhà cách mạng chuyên nghiệp - là đúng nhất"(2). Không nên chỉ thấy ở đây thái độ khiêm tốn của một vĩ nhân. Bác đòi hỏi phải nhận thức chính xác về chuyên môn nghề nghiệp, Bác có những yêu cầu cao về thiên chức của người làm văn nghệ. Trong bài nói chuyện tại buổi bế mạc đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, Bác phân biệt ở mình hai "địa vị": địa vị "một người yêu chuộng văn nghệ" và địa vị "một người chính trị". Trên "danh nghĩa một người yêu chuộng văn nghệ", Bác chúc mừng đại hội, nêu những nhận xét của mình về tình hình văn nghệ, trình bày những ý kiến về tình hình đất nước, cuộc sống của nhân dân. Rồi Bác kết thúc bài nói chuyện như sau: "Phần trước là tôi đứng về địa vị một người yêu chuộng văn nghệ mà nói. Bây giờ đứng về địa vị một người chính trị tôi xin hứa rằng Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ cố gắng trong khả năng của mình, giúp đỡ văn nghệ tiến lên(3). Có bao nhiêu điều đáng cho chúng ta suy nghĩ từ thái độ đó, từ một cách tiếp cận như vậy đối với lĩnh vực văn hóa văn nghệ, đối với những người làm văn hóa văn nghệ, về cách lãnh đạo văn hóa văn nghệ, về quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân.

Trong văn hoá văn nghệ cũng như trong các lĩnh vực khác của công tác cách mạng, di sản của Bác để lại cho chúng ta, không chỉ gói gọn trong những quan điểm, tư tưởng của Bác về văn hóa văn nghệ, mà còn nằm trong phương pháp, trong thái độ tiếp cận, ứng xử của Bác đối với những vấn đề văn hoá văn nghệ, đối với trí thức văn nghệ sĩ.

Nhà thơ xô viết nổi tiếng Ôxip Mandenxtam trong lần gặp Bác vào cuối năm 1923 ở Liên Xô, lúc bấy giờ Bác mới hơn 30 tuổi, đã có một nhận xét đáng suy nghĩ: "Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai"(4).

Cái gì ở Bác đã khiến cho một nhà thơ xô viết đầy tài năng này không trực tiếp nghĩ đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường hay tính tất thắng của một sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà lại nghĩ đến văn hóa, đến một nền văn hóa tương lai? Ở người thanh niên Nguyễn Ái Quốc, nhà thơ không chỉ nhìn thấy lòng yêu nước và thái độ căm thù quân xâm lược, mà chính là một nhân cách lớn, một cách suy nghĩ mới mẻ, một nhãn quan văn hóa sâu rộng qua những lời tâm sự, những nhận xét, những câu trả lời chân tình, đặc sắc, đầy tự tin nhưng cũng hết sức tinh tế của Bác về đất nước và nhân dân, về bản thân và gia đình, về dân tộc mình và các dân tộc khác, về phong trào của Gandi, về lý luận của Khổng Tử, về Rousseau và Montesquieu, về "văn minh" của bọn cướp nước mà bao giờ Bác cũng nói đến với một thái độ phẫn nộ và đầy khinh bỉ... Với tư cách là một nhà thơ, có lẽ điều mà Mandenxtam cảm thấy đặc biệt hấp dẫn ở Bác, điều đã khiến cho nhà thơ nghĩ đến văn hoá, đến một nền văn hóa tương lai là ở chỗ này "dân tộc Việt Nam đáng yêu, một dân tộc lịch thiệp và độ lượng, rất ghét những gì thái quá. Dáng dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, cũng đang tỏa ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị"(5).

Nếu như văn hóa thể hiện trước hết trong quan hệ giữa người và người, nếu như văn hóa bắt đầu từ chỗ vượt ra khỏi "chủ nghĩa cá nhân và sự trói buộc của hoàn cảnh hạn hẹp để có thể đến với người khác, hiểu và quí trọng những cái khác mình - thì thái độ ghét những cái thái quá, sự độ lượng, lịch thiệp, tế nhị, quả là những biểu hiện rất đặc trưng của văn hóa.

Nhận xét của Mandenxtam về Bác là một nhận xét rất độc đáo, mà lại rất cơ bản và chính xác, nhà thơ thật sự là "có con mắt tinh đời". Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu về Bác đã rất tâm đắc với ý kiến này.

Có thể nói, trong những phát biểu về văn hóa văn nghệ, cũng như khi tiếp xúc với giới văn hóa văn nghệ, tham gia giải quyết những vấn đề cụ thể về văn hóa văn nghệ, Bác không chỉ đứng ở tư cách một nhà chính trị, một người yêu chuộng văn nghệ mà còn đứng ở tư cách một nhà văn hóa, với thái độ giúp đỡ đầy trách nhiệm, hiểu biết, chân tình, độ lượng, lịch thiệp và tế nhị.

Là một nhà chính trị, một nhà lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm chủ yếu phương diện chính trị của hoạt động văn hóa văn nghệ, những yêu cầu khách quan, yêu cầu chung của cách mạng, của nhân dân đối với hoạt động này. Nếu có nói đến chủ thể sáng tạo, Bác cũng chú ý trước tiên vấn đề lập trường quan điểm chính trị của nghệ sĩ. Nền văn nghệ mà Bác Hồ cổ vũ là hướng vào thực hiện những mục tiêu chung của cách mạng, một vũ khí tư tưởng, một công cụ giáo dục. Với một quan điểm chung như vậy về văn nghệ, nhất là nền văn nghệ này lại phát triển chủ yếu trong thời kỳ đấu tranh chính trị trong hoàn cảnh chiến tranh, Bác ít chú ý đến những nhân tố đặc thù của lĩnh vực này như tài năng, cá tính, tự do sáng tạo. Sự phong phú đa dạng mà Bác nói đến trước hết là sự phong phú đa dạng của thực tế khách quan, của nhu cầu nhân dân đối với văn hoá nghệ thuật, chứ chưa phải là sự phong phú đa dạng của chủ thể sáng tạo, của tài năng, của cá tính nghệ sĩ. Có cơ sở để nói rằng Bác nhấn mạnh chức năng giáo dục, chức năng miêu tả (phản ánh) của văn nghệ, mà chưa quan tâm nhiều đến chức năng nhận thức (và tự nhận thức) theo nghĩa chặt chẽ của nó, chức năng thm mỹ và hầu như không nói đến chức năng biu hiện (và tự biểu hiện) của văn nghệ. Khi cuộc sống chuyển trọng tâm từ đấu tranh chính trị sang xây dựng kinh tế và văn hóa, từ sinh hoạt không bình thường trong chiến tranh sang sinh hoạt bình thường trong hòa bình; khi văn nghệ có nhu cầu và có điều kiện phát huy sức mạnh riêng của nó, bộc lộ đầy đủ hơn bản chất của nó, thì những vấn đề trên đây càng trở nên đương nhiên và phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu.

N.V.H
(TCSH55/05&6-1993)

 

---------------------
(1), (2) Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. - Sđd, trang 513-514.
(3) Về công tác văn hoá văn nghệ. - Sđd, trang 35.
(4), (5) Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. - Sđd, trang 478.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.