Chủ nhân của giải thưởng Nobel Văn học 2021 và vấn đề hậu thực dân

09:39 07/12/2021

CHU ĐÌNH KIÊN   

Vượt qua nhiều nhà văn tên tuổi được bạn đọc trên toàn thế giới mong đợi được gọi tên như: Annie Ernaux (Pháp), Margaret Atwood, Anne Carson (Canada), Haruki Murakami (Nhật Bản), Ludmila Ulitskaya (Nga), Ngũgĩ wa Thiong’o (Kenya)… năm nay, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã công bố quyết định trao Giải Nobel Văn học năm 2021 cho nhà văn Abdulrazak Gurnah (1948).

Nhà văn Abdulrazak Gurnah

Mặc dù, ngày từ đầu cuộc bình chọn, thăm dò của các độc giả khắp nơi thì Abdulrazak Gurnah không nằm trong danh sách nào cả. Như vậy, ông là nhà văn châu Phi thứ sáu nhận giải thưởng danh giá này sau Wole Soyinka (Nigeria), Nagib Mahfuz (Ai Cập), Nadine Gordimer và John Maxwell Coetzee (Nam Phi), Jean-Marie Gustave Le Clézio (Mauriti-Pháp).

Abdulrazak Gurnah sinh ra trên đảo Zanzibar thuộc Tanzania, một vương quốc Hồi giáo, một quốc gia nghèo đói ở Đông Phi, đến Anh tị nạn vào cuối những năm 1960 để thoát khỏi sự đàn áp của người Ả Rập trong Cách mạng Zanzibar. Những năm 1960, ở quê hương ông bị bao trùm bởi không khí chính trị căng thẳng, bạo lực diễn ra khắp nơi, rất nhiều người bị bắt và bỏ tù. “When I left was very dangerous place then. People were being jailed. There was very little room for manoeuvre, for people to work, to prosper, or even to speak and to speak openly about their discontent” [5]. Bối cảnh trên sau này được Gurnah phản ánh sâu sắc trong tiểu thuyết By the Sea (2001).

Không nằm trong vùng dự đoán của độc giả, giải thưởng Nobel Văn học 2021 trao cho nhà văn thuộc một quốc gia châu Phi (Tanzania). Như lời hứa của Viện Hàn lâm Thụy Điển về việc “mở rộng địa lý” đối với chủ nhân giải Nobel Văn học, không còn “châu Âu hóa” nữa, giải thưởng đang thực sự hướng đến các vấn đề nhân loại hơn là phạm vi địa lí và gây bất ngờ lớn cho bạn đọc Việt Nam và khắp nơi trên thế giới.

Năm 1960, Abdulrazak Gurnah đến Anh tị nạn, nên chủ đề bao trùm trong sáng tác của ông là vấn đề hậu chiến và người tị nạn, lưu vong. Ông có nhiều bài viết liên quan đến chủ nghĩa thực dân, các quốc gia ở vùng châu Phi thời kỳ hậu thuộc địa. Ông dành nhiều thời gian nghiên cứu các công trình về văn học châu Phi. Từ 1980 đến 1982, ông giảng dạy tại Trường Đại học Bayero Kano ở Nigeria. Sau đó, chuyển đến Trường Đại học Kent (Anh), nơi ông lấy bằng Tiến sĩ và được bổ nhiệm làm Giáo sư kiêm Trưởng khoa Tiếng Anh. Là một học giả, ông đã cống hiến hết mình để nghiên cứu về tiểu thuyết thời kì hậu thuộc địa và các vấn đề liên quan đến chủ nghĩa thực dân/hậu thực dân, đặc biệt là liên quan đến châu Phi, Caribe và Ấn Độ.

Năm 2015, thế giới xót xa, bàng hoàng khi chứng kiến Alan Kurdi, một cậu bé 3 tuổi người Syria bị chết đuối trên bờ biển Địa Trung Hải trong cuộc chạy trốn khỏi cuộc nội chiến và tị nạn đến đảo Kos của Hy Lạp với mong muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn. Có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, trong đó có văn chương đi sâu khai thác, làm rõ bi kịch con người thế kỉ XXI - vấn đề thời kì hậu chiến. Thế giới đang đối diện với vấn đề tị nạn gay gắt, quyết liệt. Chưa bao giờ phía sau bức màn chiến tranh lại trở nên khốc liệt như lúc này.

Vậy điều gì đã giúp cho Abdulrazak Gurnah giành giải thưởng Nobel Văn học năm 2021? Theo chúng tôi, có ba lí do cơ bản.

Thứ nhất, đó là văn chương của Abdulrazak Gurnah đề cập đến vấn đề toàn cầu hóa. Chúng tôi xin trích lời nhận xét của Viện Hàn lâm Thụy Điển để nhấn mạnh: tiểu thuyết gia Abdulrazak Gurnah giành giải thưởng Nobel 2021 “vì sự thâm nhập kiên định và giàu lòng trắc ẩn của ông đối với những tác động của chủ nghĩa thực dân, cũng như số phận của những người tị nạn trong hố sâu ngăn cách giữa các nền văn hóa và các lục địa” [1]. Chủ tịch Ủy ban Nobel cho biết các tiểu thuyết của ông, từ tác phẩm đầu tay Memory of Departure (1987) đến tác phẩm gần nhất Afterlives (2020) đều “tráng lệ”, khiến người đọc mở rộng tầm mắt về nền văn hóa Đông Phi vốn còn xa lạ với thế giới. Như vậy, điều đầu tiên để giúp Abdulrazak Gurnah được xướng tên trên bục vinh quang này chính là tác phẩm của ông phản ánh bối cảnh không gian rộng lớn. Vượt qua ranh giới địa lí của một hòn đảo Zanzibar, một Đông Phi, văn chương của Abdulrazak Gurnah khái quát bức tranh toàn vẹn đời sống nghèo đói, khắc nghiệt của châu Phi nói riêng và thế giới nói chung.

Thứ hai, tác phẩm của Abdulrazak Gurnah chạm đến vấn đề thời sự nóng bỏng nhất của thế giới thế kỉ XXI: chiến tranh, tị nạn, lưu vong và sắc tộc... Đến nay, ông có khoảng 10 tiểu thuyết và một số truyện ngắn, tiểu luận, phê bình. Tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến Paradise (1994), Desertion (2005), By the Sea (2001), Gravel Heart (2017), Afterlives (2020)… Nhà phê bình văn học Bruce King1 nhận xét rằng, tiểu thuyết của Gurnah đặt các nhân vật ở Tanzania nói riêng châu Phi nói chung trong bối cảnh quốc tế rộng lớn (Africans have always been part of the larger, changing world [3]). Trong Admiring Silence, By the Sea Desertion, các nhân vật của ông là những kẻ cô đơn, bị xa lánh, ruồng bỏ sau nhưng lần di cư (the alienation and loneliness that emigration can produce and the soul-searching questions it gives rise to about fragmented identities and the very meaning of ‘home’ [2]). Vấn đề ý nghĩa đích thực của cuộc đời là gì? Đâu là ngôi nhà/quê hương thực sự của những kẻ tị nạn? Đây là các câu hỏi mà Abdulrazak Gurnah gay gắt đặt ra để kiếm tìm. Các nhân vật của Gurnah bị kẹt giữa các nền văn hóa và lục địa châu Phi và châu Âu. Họ luôn sống trong trạng thái bất an, lo lắng. Cuộc sống phải liên tục thay đổi để thích nghi với môi trường mới, các nhân vật của Gurnah dung hòa giữa nơi ở mới và quá khứ bản địa, không khuất phục hoàn cảnh mà vươn lên mạnh mẽ để tự hoàn thiện các giá trị đẹp đẽ.

So với nhà văn Nam Phi John Maxwell Coetzee (Nobel Văn học 2003) thì tác phẩm của Abdulrazak Gurnah có nhiều điểm tương đồng. Đó là đều phản ánh chân thực nhất thực trạng châu Phi trong và sau cuộc chiến tranh phân biệt chủng tộc. Thế giới lầm tưởng rằng, chủ nghĩa sắc tộc hẹp hòi không còn tồn tại ở châu Phi những năm cuối của thập niên 90 của thế kỉ XX. Thực tế, Châu lục Đen này đang đối mặt với hậu cuộc chiến có vẻ gay gắt hơn trước đó và những thảm họa nhân đạo mới. Nghèo đói, phân biệt chủng tộc, sự thờ ơ, giả tạo của chính quyền mới, tị nạn… đã đẩy con người rơi vào hoàn cảnh bi thảm, đối diện với lựa chọn ở lại quê hương nghèo đói bạo lực hay là tìm kiếm vùng đất mới với hi vọng mong manh. Tuy nhiên, so với Coetzee - nhà văn da trắng phản ánh thực trạng châu Phi bằng thái độ ngoại cuộc, dửng dưng lạnh lùng đến ngột ngạt thì Abdulrazak Gurnah lại viết bằng chính những trải nghiệm bên trong người da đen.

Hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông gồm Memory of Departure (1987), Pilgrims Way (1988) là những ghi chép trải nghiệm, chứng kiến của bản thân ông và những người nhập cư ở Anh. Với tư cách là người trong cuộc, tác phẩm của ông đã phản ánh chân thành nhất bức tranh cuộc sống của những người tị nạn ở Anh cuối thế kỉ XX. Cả hai tiểu thuyết đều được kể ở ngôi thứ nhất, người kể chuyện phải lựa chọn giữa sự im lặng che đậy họ và bảo vệ họ khỏi những định kiến phân biệt chủng tộc.

Thứ ba, tác phẩm của Abdulrazak Gurnah phản ánh những ngõ ngách bi kịch khốc liệt của người dân châu Phi với hi vọng về cuộc sống tươi đẹp trong tương lai. Các nhân vật trong sáng tác của ông luôn có khao khát thoát khỏi mảnh đất nghèo khó, bạo lực và chiến tranh để du hành đến miền đất hứa. Nhưng tất cả đều rơi vào bi kịch của phân biệt chủng tộc, đẳng cấp và tị nạn. Châu Âu chưa bao giờ khoan nhượng và có thái độ công bằng với người da đen châu Phi nhập cư. Ở đây bạo lực và phân biệt cũng kinh khủng như bản địa, nơi họ sinh ra. Các nhân vật của Gurnah trôi dạt trong hai thái cực: RỜI BỎ và BỊ BỎ RƠI.

Memory of Departure (tạm dịch: Ký ức khởi hành, 1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Abdulrazak Gurnah được đánh giá là khốc liệt, hài hước và sắc sảo. Sống với gia đình tại một ngôi làng ven biển nghèo khó, Hassan Omar, 15 tuổi bị bủa vây bởi một vòng xoáy bạo lực và tuyệt vọng. Cảm giác tuyệt vọng của cậu khi chứng kiến những mảng màu u tối xung quanh. Một người cha nghiện rượu, độc tài, phóng túng; một người em gái phải làm nghề mại dâm; một người anh trai phóng đãng, bị kẻ gian lừa dối và cuối cùng chết trong một tai nạn kinh hoàng; và cuối cùng, mẹ của anh, người đã cam chịu đến chết vì bị chồng bạo hành. Sự xuất hiện của Độc lập mang đến những biến động mới cũng như sự phản bội lời hứa về tự do. Chính phủ mới lo sợ về một cuộc di cư lớn và không khuyến khích những người trẻ tuổi đi du lịch nước ngoài. Cuối cùng, Hassan đến Nairobi để ở với một người chú giàu có, với hy vọng ông ta sẽ giải quyết phần thừa kế hợp pháp của mẹ mình. Ở đây, cậu khám phá ra một thế giới rộng lớn hơn, trong đó chứa đựng phần nào sự tàn ác nhưng cũng là hy vọng và cách cứu vãn cuộc sống quá khứ và lòng ân hận giằng xé, không thể nguôi ngoai. Cuộc chạy trốn khỏi nghèo đói và bạo lực của Hassan ở một vùng đất khác bế tắc, tuyệt vọng. Sự va chạm giữa quá khứ nghèo đói, bạo lực và hy vọng tương lai, sự kết hợp của nỗi sợ hãi và thất vọng, vẻ đẹp và sự tàn bạo, tạo nên một câu chuyện khốc liệt về sức mạnh không thể phủ nhận.

Hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo của Abdulrazak Gurnah là Pilgrims Way (1988) và Dottie (1990) phản ánh tàn nhẫn về cuộc sống lưu vong của người da đen nhập cư ở châu Âu. Daud trong Pilgrims Way phải đối mặt với không khí phân biệt chủng tộc ở Anh và cố gắng tìm cách che giấu quá khứ của mình để tồn tại trên miền đất hứa. Dottie trong Dottie sinh ra ở Leeds, Anh, không đến từ Zanzibar, lớn lên nghèo khó trong một gia đình có nguồn gốc không rõ ràng. Cô cảm thấy không có nguồn gốc quê hương ở Anh, đất nước cô sinh ra và lớn lên. Dottie cố gắng tạo ra không gian và bản sắc của riêng mình thông qua sách báo và tiểu thuyết. Đọc sách cho phép cô có cơ hội xây dựng lại hình ảnh bản thân mình trong tiềm thức về bản địa.

Paradise (tạm dịch: Thiên đường, 1994) là tiểu thuyết tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Abdulrazak Gurnah. Đây là tác phẩm được đề cử trong hai giải thưởng văn chương danh giá là Booker Prize, Whitbread Prize for Fiction và là cú đúp giúp ông nhận giải thưởng Nobel Văn học năm nay. Cuốn tiểu thuyết sống động và bạo lực kể về câu chuyện của Yusuf, một cậu bé 12 tuổi sinh ra ở thị trấn Kawa ở Tanzania vào đầu thế kỷ XX. Cha của Yusuf là một ông chủ khách sạn và đang mắc nợ một thương gia Ả Rập giàu có và quyền lực tên là Aziz. Để trả nợ cho cha mình, Yusuf buộc phải trở thành đầy tớ không công cho thương gia Aziz. Yusuf tham gia đoàn lữ hành của Aziz khi họ đi đến các khu vực của Trung Phi và Công-gô - lãnh thổ mới được giao thương trong thời gian gần đây, trước đó nhiều thế hệ hoạt động này chưa diễn ra. Tại đây, đoàn thương nhân của Aziz gặp phải sự thù địch từ các bộ lạc địa phương, động vật hoang dã và địa hình hiểm trở. Khi đoàn lữ hành quay trở lại Đông Phi, Thế chiến thứ nhất bắt đầu và Aziz chạm trán với quân đội Đức khi họ càn quét Tanzania. Aziz buộc phải nhập ngũ cho đội quân của Đức. Tiểu thuyết này được viết sau một chuyến đi nghiên cứu ở Đông Phi vào khoảng năm 1990 của Abdulrazak Gurnah. Đây là câu chuyện về quá trình trưởng thành và một chuyện tình buồn của Yusuf trong thế giới khác biệt và va chạm, xung đột những hệ thống niềm tin của con người. Tiểu thuyết là một chuyến du ngoạn, phiêu lưu xuyên lục địa cùng với cuộc sống tự nhiên và cuộc xung đột với các bộ tộc mà họ gặp phải trên đường. Tạp chí The New York Times đánh giá đó là cuốn tiểu thuyết về bản chất của tự do và những mất mát về số phận Yusuf nói riêng và lục địa châu Phi nói chung: “a poignant meditation on the nature of freedom and the loss of innocence, for both a single sensitive boy and an entire continent” [4].

Mỗi tiểu thuyết của Gurnah đều tập trung vào câu chuyện của những người bình thường, nhỏ bé, số phận đơn lẻ rất dễ lãng quên trong thế giới rộng lớn. Đó là những chủ cửa hàng, nội trợ, người lính địa phương phục vụ trong quân đội thuộc địa, sinh viên và người tị nạn, lưu vong… Viết về họ, Gurnah đi sâu vào số phận, bị kịch của họ để nhắc nhở chúng ta rằng mỗi người đều đáng được ghi nhớ, cần được bảo vệ. Tiếng nói văn chương của ông không có tính chất tuyên ngôn đanh thép mà đó là tiếng nói kiên trì, bền bỉ nhưng không kém phần dữ dội, khốc liệt nhằm thay đổi số phận người da đen châu Phi trên bản đồ Nhân quyền thế giới.

Afterlives (2020) được xem là phần tiếp theo của cuốn tiểu thuyết Paradise được đề cử giải thưởng Booker năm 1994 của Gurnah. Tiểu thuyết thứ 10 này được đánh giá là một câu chuyện được kể bởi một lời kể dịu dàng về sự phi thường của cuộc sống bình thường. Câu chuyện được lấy bối cảnh giữa cuộc xung đột thuộc địa ở châu Phi, nơi người Đức, Anh, Bỉ và Pháp đang đấu tranh để giành quyền kiểm soát. Trong Afterlives với sự xuất hiện của nhiều mảnh đời bình thường, nhỏ bé, các mối quan hệ tưởng chừng như vặt vãnh… nhưng vượt lên tất cả, Gurnah ca ngợi tính chất cộng đồng thông qua sự liên kết giữa các nhân vật, cuộc gặp gỡ, giúp đỡ vượt qua hoàn cảnh của họ với nhau. Các sự kiện lịch sử trong Afterlives của Gurnah được chắt lọc, dồn nén tột độ thông qua những trải nghiệm của bản thân ông. Các sự kiện được diễn ra nhanh chóng, tuy nhiên đôi chỗ ông kể khá chậm rãi, nhất là những chi tiết liên quan đến mối tình của Hamza và Afiya khiến cho câu chuyện trở nên lãng mạn, nhẹ nhàng. Văn chương của Abdulrazak Gurnah có khi vừa biến hóa nhanh chóng, có khi rất điềm tĩnh, chậm rãi. Bên cạnh những trang viết khốc liệt, dữ dội vẫn xuất hiện những đoạn văn đậm chất lãng mạn, nhẹ nhàng, nhất là những chi tiết miêu tả khung cảnh thiên nhiên vùng biển Địa Trung Hải đẹp đến nao lòng.

Trong những năm gần đây, khi một loạt cuộc khủng hoảng nhân đạo buộc người nghèo khổ tuyệt vọng ở châu Phi phải liều mạng với hy vọng có được sự ổn định hơn và tương lai tốt đẹp hơn ở châu Âu, văn chương của Gurnah đã gây được tiếng vang lớn có sức tác động, ảnh hưởng đến bạn đọc trên toàn thế giới. Trong một bài phỏng vấn năm 2001 trên tờ The Guardian, một lần nữa Abdulrazak Gurnah nhấn mạnh mối quan tâm lớn của ông tới các vấn đề tị nạn, hi vọng về vùng đất mới và những xung đột sắc tộc văn hóa: “The debate over asylum is twinned with a paranoid narrative of race, disguised and smuggled in as euphemisms about foreign lands and cultural integrity”.

Một trong những vấn đề đau đáu trong sự nghiệp của Abdulrazak Gurnah chính là việc sử dụng ngôn ngữ. Mặc dù là một giảng viên/trưởng khoa Tiếng Anh, một nhà văn dùng tiếng Anh để sáng tác, nhưng cội nguồn tiếng Swahili (đây là ngôn ngữ chính thức của 4 quốc gia: Tanzania, Kenya, Uganda và Cộng hòa dân chủ Công-gô) của quê hương luôn thường trực trong tiềm thức của ông. Gurnah thường sử dụng các từ và cụm từ tiếng Swahili trong tác phẩm của mình. Chính những âm thanh của tiếng Swahili được đánh dấu trong các tác phẩm của Gurnah đã có tác động mạnh đến bạn đọc ở quê hương ông. Cảm thức về ngôn ngữ bản địa được xem là tiếng nói phản kháng chiến tranh đồng hóa của thực dân phương Tây trong văn chương của Abdulrazak Gurnah.

C.Đ.K  
(TCSH393/11-2021)

-------------------------------
1. Bruce King là nhà phê bình văn học người Mỹ sống ở Paris, đã giảng dạy tại các trường đại học ở Anh, Scotland, Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Nigeria, New Zealand và Israel. Ông còn là một nhà biên kịch, nhà soạn nhạc viết trên nhiều thể loại như: jazz, châu Phi và Caribe.  


Tài liệu tham khảo:

1. Press release, The Nobel Prize in Literature 2021, https://www.nobelprize.org/prizes/literature/2021/press-release, ngày truy cập 7/10/2021.
2. Hand, Felicity (2012). “Becoming Foreign: Tropes of Migrant Identity in Three Novels by Abdulrazak Gurnah”. In Sell, Jonathan P. A. (ed.). Metaphor and Diaspora in Contemporary Writing. Palgrave Macmillan. pp. 39 - 58.
3. King, Bruce (2006). “Abdulrazak Gurnah and Hanif Kureishi: Failed Revolutions”. In Acheson, James; Ross, Sarah C.E. (eds.). The Contemporary British Novel Since 1980. New York: Palgrave Macmillan. pp. 85 - 94.
4. https://www.nytimes.com/2021/10/07/books/abdulrazak-gurnah-books.html.
5. Samir Jeraj. Abdulrazak Gurnah on Afterlives and Colonial Hypocrisy. https://www.thelondonmagazine.org/essay-abdulrazak-gurnah-on-afterlives-and-colonial-hypocrisy/. Jan 20, 2021.  



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.