Chữ “Nhàn”

10:51 26/02/2010
NGUYỄN QUỐC ANHÔng nội tôi là một nhà nho. Người xưa có học thì ai cũng hiền lành, thường vui thú điền viên chăm sóc con cháu. Ông nội tôi cũng vậy.

Ông nội của ông nội tôi, là can của tôi ấy mà, có ngót 300 mẫu ruộng. Vậy mà đến đời ông nội tôi chỉ còn lại dăm chục mẫu. Số là, mỗi đời các cụ can, cụ cố, mỗi người có tới bảy người con! Ngày nay, có sự nam nữ bình quyền trên danh nghĩa luật pháp, nhưng các ông bố bà mẹ lại chẳng có gì để chia đều cho con cái. Vậy mà cụ can, cụ cố tôi đã làm chuyện nam nữ bình quyền từ xưa lắm, 300 mẫu ruộng của cụ can, cụ cố đem chia cho 14 người, đều nhau cả. Thành ra đến đời ông nội tôi trở thành thường thường bậc trung vậy.

Bà nội tôi mất trước cách mạng, năm 1944. Ông nội tôi lại chia ruộng làm bảy suất cho bảy người con. Thương vợ, ông chôn vợ trong vườn, hàng ngày chăm nom mồ mả cho vợ và bốc thuốc Bắc để sinh sống. Nhờ vậy mà hồi cải cách ruộng đất, ông không bị người làm thuê trong nhà đấu tố gì; một vài kẻ cơ hội trong xã nhí nhố một dạo, rồi mọi sự cũng qua đi. Ông bảo, nhờ mấy con chữ mà ông thoát chết. Tiếp đó là những ngày hợp tác hóa rồi chiến tranh, có đói kém thật, nhưng được ba bà con dâu chăm nom, ông vẫn được sống trong sự nhàn nhã cho đến lúc qua đời.

Con cháu của ông thật đông. Phần lớn là thành đạt, đi xa. Tôi được sống với ông nội nhiều hơn các anh chị và các em. Và hơn các anh chị em, tôi có học được dăm ba chữ Hán, chỉ đủ đọc bàn cờ tướng và một số bài về lý số.

Tôi vào bộ đội, làm khẩu đội trưởng pháo cao xạ hẳn hoi, lúc ấy mới 20 tuổi. Nhưng lại ham viết lách nên chuyển ngành sớm. Mới 23 tuổi, tôi trở thành chánh văn phòng một cơ quan cấp tỉnh, lại làm bí thư thanh niên nữa. xem ra, tôi cũng thuộc loại được “trọng dụng” sớm.

Nhưng rồi, lạy vía ông nội, tôi ham nhàn như ông, nên cơ hội leo lên trên thiên hạ để ăn trên ngồi trước cũng tự qua đi. Được sống nhàn nhã, tôi thân trần chân đất đã nuôi dạy được bốn đứa con học đến đại học. Bạn bè thấy đứa nào ra trường là “đón” về làm ở cơ quan họ cả. Thế là sướng. Giàu bạn bè! Thế là đủ! Nhàn thân, ấy là lý tưởng kẻ sĩ vậy!

Và, có lẽ vì thế, tôi hơn các anh chị và các em ở chỗ là tôi thường mơ gặp ông nội. Thông thường ông dắt tôi lang thang dọc bờ đê, bến nước. Gậy cầm tay, ông cháu trò chuyện vui thú như thuở lên mười. Duy có một lần, mới đây thôi, tôi kể cho ông một chuyện tôi vừa trải qua, bất ngờ thấy ông gõ mạnh gậy vào gốc ổi trước sân nói lớn:

- Không được rồi! Nhân bất học, bất tri lý!

Rồi ông biến mất. Tôi ngơ ngác mơ mơ tỉnh tỉnh, chẳng hiểu ông mắng tôi hay mắng ai. Lúc đầu tôi xấu hổ quá. Sau vỡ nhẽ, là ông mắng cô thủ quỹ cơ quan tôi trong câu chuyện tôi kể cho ông nghe. Khi sự việc lộn lèo phải thành trái, ơn thành oán, bạn thành thù, thành kẻ phản phúc rồi; thảng hoặc, ông vẫn hiện về an ủi tôi: “Con muốn được nhàn thân trước hết phải nhàn tâm. Không nhàn tâm được thì không bao giờ nhàn được”.

Quả thật, khi trần đời rối tinh tôi sống với cõi âm, cũng thanh thản được đôi phần. Tôi nhàn thân, thì đã rõ. Tôi trở lại nhàn tâm, quả là phúc nhà cho tôi. Nhưng, cái nhàn mà ông nội tôi nhấn mạnh, tôi nghĩ, chắc còn phải là gì… gì… nữa; có lẽ nó còn sâu xa hơn chính nó, mênh mông hơn chính nó… nữa!

Năm đó tôi đi mổ dạ dày và lấy sỏi thận về. Vết mổ dài 25 cm, phiếu mổ viết “K dạ dày”! Ôi thôi! Đã “K” rồi, còn chi nữa mà mong! Thì thôi, cũng là một sự “nhàn”! Cho chính mình!

Biết sắp đi hầu hạ ông nội, tôi vừa thấy sướng, vừa thấy lo. Tôi đã qua 7 giờ gây mê hôm ấy, tự thấy cái chết thực là nhẹ nhàng, dễ chịu! Ngày trước, ông nội tôi đang ngủ, gọi ba đứa con dâu lại, bảo: “Thầy đi đây”. Và đi luôn… Tôi chỉ còn một nỗi lo, ấy là lo cho đứa con gái đầu đang học, chưa có việc làm. Năm 1987, đói kém khó khăn, gia đình tôi buộc cho cháu đi xuất khẩu lao động. Nay các em đã qua đại học, còn chị thì chậm chân, e rồi “nước đục” cũng không có mà uống. Thương con, tôi quyết sống thêm vài năm nữa để lo cho cháu. Bè bạn đến thăm, tôi nói lên ý chí quyết sống của tôi. Tôi chạy chữa đủ cách. Và tôi đã gặp may, thoát khỏi cái chết mười mươi…

Anh Hoài con bác tôi giới thiệu cho tôi gặp ông Cập, một người có thể “chạy” được việc cho cháu. Lạy trời, hồi chưa mổ, sức còn dư, tôi liên hệ cho cháu thứ hai đi dạy học ở ngay thành phố, đến đâu cũng được tay bắt mặt mừng. Phòng tổ chức Sở giáo dục còn cho tôi giấy trắng để viết đơn đăng ký “giữ chỗ” trước! Và khi tốt nghiệp, cháu đã trả công cho ngành bằng những giờ dạy học hết sức mình. Ai cũng bảo tôi ở hiền gặp lành.

Giờ đây, theo địa chỉ anh Hoài chỉ dẫn, tôi đến gặp ông Cập. Ông bảo, ông đã về hưu sợ không làm được gì, nhưng ông sẽ cố “chạy giúp”. Nhẩm một lúc, ông bảo: “Cũng phải quanh mười triệu”. Tôi nhận lời. Ba ngày sau, ông bảo: “Ổn rồi. Chuẩn bị cho cháu đi làm”.

Chủ nhật, chồng cháu ở tỉnh phía trong về mừng rỡ bảo ông chú đã liên hệ cho cháu được việc làm ở trường Cao đẳng Sư phạm. Phúc trùng lai! Vợ chồng tôi bàn cho cháu theo chồng, tuy xa nhà một chút, nhưng quan trọng hơn cả là vợ chồng cháu được gần nhau, quá tốt!

Sáng thứ hai, trước giờ giao ban, tôi kể cho anh chị em trong văn phòng nghe. Anh chị em ai cũng mừng cho tôi, cùng một lúc được hai suất; vậy là còn thừa một suất chỗ ông Cập ngay tại đây. Cô Thủ nói vọi từ cuối phòng: “Cho con Hồ nhà em thay vào. Học kế toán ra trường hai năm rồi, chạy khắp nơi chưa có việc, ở nhà nuôi lợn với bố, nhem nhuốc, tội quá!”

Tối hôm ấy, cả nhà cô đến gặp tôi, nói khổ dài dài. Tôi rất ngại chuyện tiền nong, không phải vì sợ liên lụy, mà thương vợ chồng cô Thủ kiếm đâu ra khoảng tiền lớn như vậy để lo cho con. Vả lại, còn chuyện “thay chỗ” nữa, biết người ta có chịu không? Vợ tôi vốn là chị em họ với cô Thủ, cũng bàn riết vào. Tôi nhận lời đi hỏi lại ông Cập. “Cháu à, thêm cho anh em một triệu!” - ông Cập nói.

Tôi về nói lại. Cô ta đưa cho tôi 5 triệu gói sẵn rồi nói: “Đây là số đưa trước cho ông Cập, nhờ bác lo nốt cho cháu. Ơn nghĩa bác, vợ chồng em sẽ trả sau”. Tôi vui lòng đến giao tiền cho ông Cập.

Ba ngày sau, ông Cập đến cơ quan tôi và giao quyết định tiếp nhận cháu Hồ. Cô Thủ trao nốt cho tôi một gói 6 triệu và nhờ tôi nạp. Tôi bảo cô phải đi cùng tôi, phải cám ơn người ta thật lịch sự chứ, rồi sau này biết đâu còn nhờ cậy nữa… Cô ngập ngừng, mở sổ bảo tôi ký nhận. Xưa nay ký nhận tiền, tôi chẳng đọc con số làm gì, nhưng lần này, trên trang giấy trắng, trời xui tôi nhìn vào, có ghi sáu triệu thật. Rồi hai người đến thẳng nhà ông Cập. Cô Thủ về rồi, ông Cập giao cho tôi năm trăm ngàn tiền công. Tôi trả lại cho ông, nói: “Tôi lo cho cháu lấy tiền làm gì của bác!”

Ra Tết thì nghe tin cơ sở của Hồ đang công tác sẽ được bàn giao về huyện. Cô Thủ lo lắng. Tôi nói: “Vào được nhà họ rồi, lo gì, tôi sẽ nói với các anh trên huyện cho”. Đang điều trị ung thư, tôi nhờ bạn đèo xe lên gặp ông Giám đốc trung tâm của cháu Hồ. Giám đốc trung tâm gọi cháu Hồ lên, bàn tạm sang bên giáo dục, bên ấy đã sơ bộ nhận lời rồi. Ông hứa sẽ xếp cho cháu một trường gần thành phố, về nhà cho tiện.

Tôi trở về cơ quan báo tin vui cho mẹ cháu Hồ. Và dại mồm nói thêm: “Hôm nào ta sang đòi ông Cập trả tiền công cho ta, mua cho cháu Hồ cái “sa-li”!

Hóa ra tôi là kẻ vẽ đường cho chuột chạy. Biết được tôi có khả năng đòi lại tiền ông Cập, cô Thủ bèn kéo chồng lên huyện tổ chức liên hoan. Trở về, cô ta nói: “Mọi việc trên đó chu đáo rồi. Anh đòi tiền ông Cập cho em”. Ở cơ quan, cô ta tung tin rằng, việc liên hệ sang ngành giáo dục là do vợ chồng cô ta tự làm, cũng tốn hết chừng ấy triệu (ý nói ngang số tiền đã đưa cho ông Cập). Với chị em bè bạn cùng cơ quan cô ta nói, lúc thì năm triệu, lúc thì sáu triệu…

Bức quá, tôi sang đánh bài ngả với ông Cập, yêu cầu ông bớt tiền công phần việc tôi lo trả cho cô ta, danh dự tôi cần được bảo vệ. “Hắn cũng nghèo, ta trả cho hắn, rảnh nợ, ta làm việc khác”.

Chuyện bé xé ra to, cả thành phố nghi ngờ tôi cũng có, nhưng nhằm vào ông Cập đã sang nhà tôi bàn bạc về số tiền ông phải trả lại. Thôi đành kéo nhau đi lạy bà H, phải lần lại đầu mối! Vợ chồng ông Cập dở giọng mặc cả, làm vợ tôi nổi nóng quát ầm ầm. chồng cô Thủ thừa cơ vu cho tôi nhận tiền ăn đút lót và dọa đón đánh. Tôi dội nước lã vào mặt hắn: “Xin mời anh ra tòa!”. Hắn biết rõ ra tòa thì tôi sẽ vô can, mà con hắn sẽ phải về nuôi lợn. Hắn im re. Vợ hắn sau đó đã xin lỗi tôi và hứa cấm chồng đến cơ quan gây sự. Nhưng cô ta sau đó đã đâm đơn kiện công đoàn ngành, cốt làm xấu tôi trong đồng nghiệp… Chi bộ họp, đã làm rõ cho tôi là người chưa hề một lần vụ lợi. Thời gian cũng giúp cô Thủ tỉnh lại. Tự cô ấy đã thanh minh cho tôi.

Lạy vía ông nội tôi, ông thiêng quá. Ông đã hiện về can ngăn tôi từ đầu. Rồi ông còn hiện về vài lần nữa, bảo tôi coi chừng cái đám đàn bà xì xị, mặt ngắn, ác hiểm lắm, phản phúc lắm đấy… Đúng vậy chăng?

Tám đứa con trai, con gái, dâu, rể tôi đều túm tụm lại bàn mưu trả thù cho bố. Tôi hỏi, bằng cách nào? Chúng bảo: Phải tạo cho mình một thế đứng. Phải làm cho hắn con gái không chồng, con trai không vợ. – Vô hậu! Ác quá, không nên! Tôi can ngăn. Nhưng dù sao thì vẫn mừng khi chúng biết tự tìm cho mình một thế đứng trong xã hội. Thế là tôi vẫn có lợi vẫn nhàn tâm. Còn hại người, tôi tin là giận quá thì chúng nói vậy, chứ cháu con cả họ nhà tôi không ai biết chơi ác bao giờ.

Em gái tôi, ở xa về thăm, sau khi nghe chuyện, im lặng một lúc rồi nói: “Làm việc tốt để phúc cho con cái anh ạ. Như anh, chồng không chức vợ không vụ, vẫn nuôi dạy được bầy con cái trưởng thành. Ốm đau thập tử nhất sinh vậy, qua đi được, trời trả phúc cho anh rồi đấy!

… Té ra ông nội tôi chẳng hề là vĩ nhân, nhưng tư tưởng ông đã vượt qua nhiều thời đại, bắt gặp được với nhiều thế hệ con cháu thật!

Kính lạy ông!

Hè 98
N.Q.A
(121/03-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.

  • PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.

  • NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H

  • TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…

  • NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.

  • THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…

  • NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.

  • XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.

  • PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt  vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...

  • PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.

  • QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.