Chơi giữa hoàng hôn

10:07 03/06/2008
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

Khi tôi đang ngồi viết những dòng này về thơ Trinh Đường, chính là lúc căn bệnh trầm kha dạ dày và tuổi già đang đánh vật với con người Thi sĩ của ông trên giường bệnh. Khó ai có thể ngờ rằng những lúc như thế, ông điềm nhiên vang vang lời khinh bạc: "Về, đi hay ở cũng phương trời". Cách đây chừng vài ba năm, đã có lần nhà thơ hẹn cùng tôi: "Mình sẽ về quê Duy Mỹ (nay là xã Đại Thắng) thả thuyền trôi trên bến Thu Bồn, nằm trên võng trong vườn xưa nghe dừa, cau kể chuyện tuổi thơ mà dựng lại đoạn phim đầu đời...". Hình như những lúc như thế, ông đang làm thơ. Và cũng chỉ có thơ mới đủ liều lượng, thúc giục bước chân thi sĩ đi cùng trời cuối đất, với khát khao tạc một chân dung thơ Việt theo cái sở nguyện của riêng mình.
Tôi còn nhớ có một lần vào những ngày mà Tết nhứt đang cận kề rượt đuổi sau lưng. Thế mà ông vẫn ung dung trên chiếc LADA của một cơ quan mặt trận cho mượn, rủ tôi, "phiêu bồng" cùng ông dăm quãng. Ngồi trên chiếc xe lật khật con đường ổ gà ông hí hoáy, tẩy xóa, để rồi ra đời những dòng thơ nghe chừng thấp thoáng một nỗi buồn của bóng xế, của âm vọng tà dương.
Cộng hết đường ta đi
Đã giáp vòng mệnh số?

Lúc đó, tôi nói cùng nhà thơ: "Làm gì mà đã giáp vòng mệnh số, còn lắm lửa hoàng hôn chú ạ, hay đó là bình minh mới của một tà dương vậy mà". Ông cười hồn nhiên rồi lật bản thảo một bài thơ khác, hình như vừa mới làm xong đêm qua:
Hỏi anh sinh năm nào
Quên khuấy ngày sinh nhật.
Chắc là thi sĩ quên thật. Nói thế có khi có người khó tin. Nhưng tôi thì tôi tin. Cũng vì cái sự quên ấy mà vừa qua đã có cơ quan, bạn bè văn nghệ đã đến viếng La – Vân - Hiên của ông ở Cổ Nhuế, Từ Liêm ngoại thành Hà Nội, để chúc thọ lão thi sĩ Trinh Đường thượng thọ 85 (theo cái năm sinh 1917). Thôi thì chúc mừng hay mừng thọ cũng đều quí cả. Người xưa dạy rằng quá lục thập thì tính năm, quá thất thập thì tính tháng, quá bát thập thì tính ngày... Vậy thì nhà thơ dẫu đã 83 (1919) hay đã 85 (1917) cũng đều đã quá "bát thập". Đâu phải đến giờ này ông mới tính già – non cái cung mệnh phù trầm của một đời thơ từng trải khổ đau, từng trải hạnh phúc: "Đem rũ hết hành trang. Được bao nhiêu bụi đỏ...".
Sẽ khó mà tự mình trả lời không – cái có, cái được – cái mất. Mượn lời của nhà thơ Huy Cận viết về thơ Trinh Đường, âu đó cũng là chút "của tin" vậy: "Bút pháp tác giả luôn đổi mới, biến hoá nhuần nhuyễn trong cấu trúc bài thơ, câu thơ, xáo trộn thực và hư, cảm giác cơ thể và ảo giác của tâm hồn, xáo động thời gian xưa và nay... (1)". Làm sao, vùng vẫy thế nào để xáo động thời gian xưa và nay? Đó là cá tính của Trinh Đường thi sĩ, suốt một đời thơ, lúc nào ông cũng như muốn xoá mình ngày qua để nhớ đến mình ngày mai. Lúc nào cũng nuôi một niềm tin, một hoài vọng: "Sống không làm tia chớp. Chết chẳng thể nào yên". Cái tia chớp nhuốm màu siêu nhiên ấy, suốt một "hành trình" thơ ông là một khám phá mới về nhân thân, về số phận: "Tôi soi mặt xuống nước. Thấy một tôi thứ hai. Tôi soi vào mắt ai. Lại thấy tôi thứ nhất...". Và rồi đến "Trò chơi phù thế" thì tia chớp ấy lại ánh lên một màu lửa khác: "Ta có sá gì đi với ở. Đi – biết bao giờ tới nơi. Về – biết bao giờ tới chốn. Về, đi hay ở cũng phương trời".
Sau một "Hành trình" đầy ắp khát vọng vùng vẫy, sau một "Trời chơi phù thế" nhẹ tênh phiêu bồng, an nhiên tự tại, Thi sĩ trở về trong cái "Am – Thu – Không" của mình, say sưa với công việc đãi cát tìm vàng: "Đón gió hỏi nhà, nhờ mây chỉ lối, tôi đã đi tìm thơ qua các tàng thư và sông núi, đã đãi cát tìm vàng dọc theo dòng sông thế kỷ này không ít hơn sáu năm trời... Con mắt xuyên qua đất cát, trí nhớ sục sâu vào quên lãng, tai lắng nghe tiếng thì thầm từ trong hoài niệm, tay giành giật với mối mọt để nhìn vào các ngõ ngách tháng năm". Lấp gấp chạy đua với thời gian để kịp năm 2000 cho ra đời tập 1 công trình "Thơ Việt thế kỷ 20 chọn lọc và bình". Thư và sách từ Hà Nội gửi vào cho bầy trẻ chúng tôi, ông bảo sẽ cố gắng ra tiếp tập hai trong thời gian tới. Thế rồi, nhà thơ phải vào bệnh viện để cắt khối u dạ dày. Thời gian này, e sức khỏe khó lòng cho việc thực hiện nốt cái phần công việc còn lại, ông đã gửi tất cả bản thảo cho nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi để anh thay ông đảm nhận cái công việc mà ông hằng tâm huyết. Nhưng nghị lực hay cái "quyền năng" của nàng thơ đã "nhiệm màu" nâng ông dậy một cách khỏe khoắn lạ thường. Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi đã sốt sắng bưng cả chồng bản thảo dày cuộm trao lại cho ông thay cho lời chúc mừng, rằng ông phải giải quyết xong cái món "nợ nần" này rồi muốn phủi tay "về, đi hay ở một phương trời" thì tùy thích.
Mừng nhà thơ Trinh Đường vượt qua "cửa tử", tôi lại hy vọng được nằm trên chiếc thuyền trôi bồng bềnh giữa dòng Thu Bồn, nghe ông kể chuyện cái quê nhà Duy Mỹ xa lắc xa lơ, đầy huyền thoại với trăng cổ tích... Thế rồi, những ngày này nghe tin ông lại vào bệnh viện do bệnh cũ tái phát, rồi lại nghe ông được khỏe ra và đã về nhà. Cầu mong cái con đường nhấp nhô tử sinh ấy, không hù dọa nổi trái tim thi sĩ không tuổi tác của ông. Mà có lẽ, không dọa dẫm được thật, bằng chứng là thơ ông vẫn ngày ngày trên mặt báo. "Giường ơi giường có nhớ ta. Triều lên đã mấy tuần qua ta nằm". Có nghĩa là, cùng với mọi dược liệu, nhưng chính thơ là "dược liệu" trước hết. Rồi ra, thơ sẽ nâng ông bay lên. Nhà thơ Võ Văn Trực xác quyết rằng: "Ông là một người suốt một cuộc đời sống chết với thơ". Câu nói ấy chẳng có cái gì là quá, khi chính lúc này đây, thơ Trinh Đường – như một thứ lửa đang ánh lên giữa hoàng hôn tuổi tác. "Tôi sinh trong bờ bụi. Uống gió và ăn sương... Ai bảo hoa quỳ dại. Khi đêm ngày hướng dương". Một thứ ánh sáng ngời ngời như thế mà một đời kiêu bạc cỏ dại hoa hoang. Lửa ấy lẫn vào đâu cho được.
Đà Nẵng, 15 tháng 8 năm 2001

NGUYỄN NHÃ TIÊN
(nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001)

-------------------------------------------------
(1) Lời bạt Huy Cận viết cho tập thơ "Hành trình" - thơ Trinh Đường, Nxb Thanh niên 1996.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

  • (Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.

  • Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.

  • (Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?

  • “Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời

  • Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.

  • Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.

  • Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.

  • (Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.

  • Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.

  • (Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.

  • Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...

  • Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người

  • Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.

  • Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.

  • Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm