Chiều “Du Tử Lê và bằng hữu”: Cảm xúc trong không gian như dồn ứ lại

08:45 11/11/2016

NHƯ MÂY

Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.

Nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc tặng hoa cho nhà thơ Du Tử Lê. (Ảnh Nguyễn Ngọc Hạnh)

Cuộc giao lưu “Du Tử Lê và bằng hữu” ngập tràn cảm xúc này do Tạp chí Sông Hương, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức, kết nối những tâm hồn thơ Việt ở hai bờ Thái Bình Dương.

Nhiều thế hệ yêu thơ đã có mặt trong khán phòng Cà phê sách Phương Nam để được nghe lại những bài thơ, những ca khúc phổ nhạc từ thơ Du Tử Lê; được nghe nhà thơ nói chuyện thơ, nghe “chàng rể Huế” kể chuyện tình với Huế…

Nhà thơ Du Tử Lê sinh năm 1942, làm thơ từ năm 1953 và đã có thơ in trên các báo thời đó ở Hà Nội. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức từ năm 1958 trên tạp chí Mai. Ông đã xuất bản trên 70 tác phẩm, trong đó các năm 2014, 2015 tập thơ “Giỏ hoa thời mới lớn” và tập Tùy bút chọn lọc của Du Tử Lê đã xuất bản ở Việt Nam. Từ năm 1981 đến nay, ông có nhiều buổi thuyết trình tại các trường đại học ở Mỹ, Pháp, Đức, Úc… Những năm 1990 về sau, thơ ông được một số đại học nước ngoài dùng để giảng dạy cho sinh viên. Du Tử Lê là một trong 6 nhà thơ Việt Nam thuộc thế kỷ 20 có thơ được chọn in trong tuyển tập “Thi ca Thế giới từ thượng cổ tới hôm nay” (World Poetry - An Anthology of Verse from Antiquyty to Our Time” do nhà xuất bản W.W Norton New York ấn hành năm 1998)... Ngoài ra, nhà thơ tài danh này còn vẽ tranh, chỉ riêng năm 2012 ông đã có 4 cuộc triển lãm cá nhân tại Houstan, Seattle, Virginia, Atlanta (Mỹ).
 

Đông đảo công chúng đến với cuộc giao lưu. (Ảnh Bảo Hòa)
Nhà thơ Du Tử Lê ký tặng sách cho người hâm mộ
Ca sĩ Dạ Thảo say đắm thể hiện bài Khúc thụy du. (Ảnh Bảo Hòa)

Buổi giao lưu bắt đầu. Một số tác phẩm tiêu biểu như Khúc Thụy Du, Quê hương là người đó, Trên ngọn tình sầu… do các nhạc sĩ Phạm Đình Chương, Anh Bằng, Từ Công Phụng phổ nhạc và bài thơ Ai nhớ ngàn năm một ngón tay được cất lên đầy xúc động qua những giọng ca của các ca sĩ Dạ Thảo, Hữu Quang, Minh Tùng. Thơ Du Tử Lê được phổ nhạc rất nhiều, các nhạc sĩ danh tiếng như Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Anh Bằng, Từ Công Phụng, Đăng Khánh, Trần Duy Đức, Khang Thụy… đều có những ca khúc phổ thơ Du Tử Lê. Trong đó “Khúc Thụy Du” do nhạc sĩ Anh Bằng phổ thơ Du Tử Lê được xem là một trong những bản tình ca hay nhất.

Gần như mang một mối cảm xúc dâng tràn, ca sĩ Dạ Thảo đã thể hiện rất hay chiều sâu thẳm của các ca khúc, đặc biệt là “Khúc Thụy Du”… Như thể Dạ Thảo không chỉ hát, mà đang là người trong cuộc kể lại câu chuyện tình Thụy Du. Điều đó đã làm cho công chúng liên tưởng đến những bài thơ tình của Du Tử Lê. Trong hàng trăm bài thơ của ông, thơ tình vẫn trội hơn cả như thể đó chính máu huyết nhà thơ, với nỗi say đắm tận cùng… Nhiều khi, tình yêu đã vượt qua câu chuyện riêng tư, để trở thành câu chuyện của quê hương…

Phần giao lưu thật sự đã đem lại cho công chúng nhiều cảm xúc. 40 năm mới gặp lại bạn thơ cùng thế hệ, nhà văn Bửu Ý không khỏi ngỡ ngàng: “Đây là một cuộc gặp gỡ sang trọng, trong một không gian sang trọng. Một không gian không phải sang trọng vì có những thứ đắt tiền, mà ở chỗ trong không gian này đang ngưng lại, dồn lại biết bao kỷ niệm. Sang trọng bởi có những người yêu văn chương cùng ngồi lại. Một không gian mà tôi được gặp lại những người làm văn nghệ của một thời chỉ hùng hục viết, hùng hục gặp gỡ mà không thấy khổ, dẫu có lúc cơm cũng không có ăn”. Gần như thời gian suốt mấy mươi năm được dồn nén lại trong nỗi xúc động của nhà văn Bửu Ý, và người ta nhận ra cảm xúc cũng đang dâng lên trong mắt người bạn Du Tử Lê: “Gặp nhà thơ Du Tử Lê cười với tôi một cái thì tôi thấy lạ, bởi nụ cười này rất quen, mình gặp cách đây 40 năm rồi mà, giờ mới gặp lại. Cười với nụ cười thân quen khiến bao nhiêu thời gian, bao nhiêu không gian như xóa nhòa. Gặp lại Du Tử Lê không chỉ gặp lại Du Tử Lê đâu, gặp lại Du Tử Lê là gặp lại bao nhiêu thời gian dồn ứ lại, gặp lại không biết bao nhiêu con người thông qua hình bóng của anh. Tôi cứ nghĩ rằng chúng tôi tưởng chừng như không thể gặp nhau...”.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng đã từ Hà Nội về Huế tham dự cuộc giao lưu, nhà thơ kể lại nhiều kỷ niệm giữa anh và Du Tử Lê, trong đó có chuyện hai nhà thơ gặp nhau lần đầu ở Huế. Và anh chia sẻ: “Thơ Du Tử Lê mãi mãi trẻ, trẻ từ khi anh mới bắt đầu làm thơ cho đến tận bây giờ. Anh luôn giữ được sự ngạc nhiên trong con người mình, tâm hồn anh không khi nào già đi và anh cứ viết, viết mãi…”.

Nhà nghiên cứu văn học Bửu Nam phát biểu khá dài, phân tích cái hay, những cách tân trong thơ Du Tử Lê, đặc biệt nhấn mạnh đến một kỹ thuật chấm, phết, gạch chéo cắt lìa nghĩa chữ, xô dạt thành những lớp nghĩa khác nhau, khiến không gian thơ Du Tử Lê luôn mới lạ. Nhà nghiên cứu Bửu Nam chia sẻ: “Sự nghiệp thơ ca của Du Tử Lê bắt đầu từ năm 16 tuổi cho đến nay đã 74 tuổi, với 56 năm đi đến tận cùng những nỗ lực của thi ca, thơ Du Tử Lê cũng gần như đi đến tận cùng với những triết lý sâu sắc của cuộc đời. Nhân cuộc giao lưu này, tôi cũng mong muốn nhiều nghệ sĩ phương xa trở về với Huế hơn nữa để bạn bè và người yêu văn nghệ có thể giao lưu gặp gỡ nhau nhiều hơn”.

Nhà thơ Du Tử Lê đang sống và sáng tác tại miền nam California (Mỹ). Cuộc hội ngộ này là cơ hội hiếm hoi của bạn đọc yêu thơ ông và để nhà thơ có dịp trở về quá khứ đong đầy kỷ niệm. Trước nhiều câu hỏi tò mò về những nàng thơ đi qua cuộc đời, nhà thơ Du Tử Lê rất thực: “Tôi đã trải qua nhiều cuộc tình, rất nhiều khổ đau, rất nhiều đổ vỡ và tôi phải cảm ơn Huế vì đã cho tôi một người bạn đời, một người bạn đường không thể tuyệt vời hơn là vợ tôi… Phải nói thêm rằng, để làm thơ thì không phải ngồi đếm bao nhiêu nàng thơ, bao nhiêu cuộc tình mà phải tính bằng những khổ đau trong cuộc tình đó. Và khổ đau thì ai cũng muốn quên đi”.

Những khổ đau mà nhà thơ muốn quên lại là những điều khiến bạn đọc luôn nhớ mãi về ông. Đó là khổ đau sau những lần biệt ly với người yêu, với quê hương, phải đối diện với những giằng xé trước cái chết, trước bệnh tật…

Du Tử Lê bày tỏ, bên cạnh những tác phẩm được công nhận, ông cũng có những tác phẩm, những câu từ sáng tạo đang còn gây tranh cãi mà ông muốn nói để bạn đọc hiểu ông hơn. Do đó, ông đã dành thời gian giải thích ý nghĩa cách sử dụng từ, cách ngắt câu, cách tách từ để tạo nên những hiệu ứng thi ca mới.

Trong không gian ấm áp, câu chuyện tình giữa Du Tử Lê và chị Hạnh Tuyền, vợ của anh bây giờ, được khơi gợi. Năm 1972, ông về Huế tìm người đẹp Hạnh Tuyền đã thư từ qua lại với nhà thơ trước đó, bấy giờ đang là sinh viên năm 2 Đại học Sư phạm Huế. - “Huế lúc đó là một Cố đô quyến rũ, cảnh quan và sinh hoạt của dân chúng khác hẳn với những nơi trước đó tôi đến. Lần đầu gặp Hạnh Tuyền, nghe cô nữ sinh này nói chuyện với bạn gái mà cứ như nghe tiếng một đàn chim đang ríu rít” - Ông nhớ lại và nở nụ cười. Hồi đó ông theo Hạnh Tuyền về biển Thuận An và xúc cảm sáng tác bài thơ “Khi ở cửa Thuận An”. Yêu nhau 3 năm, sau đó ông định cư ở Mỹ, xa cách người yêu. Phải đến năm 1992 ông mới có thông tin về Hạnh Tuyền, ông lập tức bay về Việt Nam tìm chị. Ông theo Hạnh Tuyền ra Huế, và từ đó chính thức làm chàng rể xứ Huế. Sống với Hạnh Tuyền, ông có những bài thơ làm bằng giọng/tiếng Huế “đặc sệt”. Nhiều bài thơ của ông viết về Huế, không có nơi chốn địa chỉ, nhưng phảng phất một Huế âm trầm, da diết. Những bài thơ như “Dòng suối trăm năm”, “Đừng nữa nhé chia lìa” là cảm giác gắn kết Huế thường trực trong tâm khảm nhà thơ. Trong thời gian ông và Hạnh Tuyền xa nhau, ông hướng về tình yêu của mình với người đẹp Huế qua bài thơ “Quê hương là người đó” đã được Phạm Đình Chương phổ nhạc…

Chàng rể Huế Du Tử Lê cảm động: “Rất cảm ơn và tri ân các bằng hữu và người yêu thơ đã tổ chức cho tôi buổi gặp mặt hôm nay. Dù không sinh ra ở Huế, nhưng một nửa của tôi đã gắn bó với Huế. Trong những bài thơ tôi viết, Huế cũng chiếm phần nhiều, nhất là phương ngữ Huế cũng đã được tôi đưa vào thơ, như tri ân một vùng đất giàu tình nghĩa, đôn hậu và dịu dàng…”. Một bạn đọc đề nghị ông đọc một bài thơ ông đã viết bằng giọng Huế, Du Tử Lê cười hóm hỉnh: “Tôi chẳng thể thuộc thơ của bản thân mình, và nếu tôi đọc thơ của tôi bằng giọng Huế thì tôi rất xin lỗi, bởi nó sẽ chẳng là Huế nữa.”

Đối với Du Tử Lê, tiếng Huế là một ngôn ngữ thơ mộng và đẹp, nếu mang chữ vào trang giấy sẽ có sự réo rắt riêng của nó. Ngôn ngữ Huế rất phong phú và cần phải hiểu được âm ngữ của Huế bằng chính giọng Huế. Ông nói ông không chịu được khi thấy người ta giả giọng Huế. Đó là một ngôn ngữ sang trọng, không đùa được…

Hai MC của buổi giao lưu là hai nhà thơ Đông Hà, Lê Vĩnh Thái, cũng là hai Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, đã dẫn dắt câu chuyện hết sức sinh động. Ngoài kia sông Hương êm đềm trôi, như bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, như một ý trong phát biểu của Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương - nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc: “Đây là buổi chiều hội ngộ đặc biệt mà chúng ta sẽ có cơ hội được gặp gỡ sau bao xa cách, có dịp cùng hồi nhớ lại những gì đã qua, đem lại cho nhau những cảm xúc nghệ thuật… Đây sẽ là một buổi chiều đáng nhớ”…

N.M
(SHSDB22/09-2016)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.