Chiếc áo choàng nhẹ nhõm đến nhường kia

10:58 15/10/2008
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

Tôi muốn được lắng nghe Trần Sĩ Tuấn nói về nghề vinh quang của mình. Song, đọc tiếp câu thơ sau tôi bỗng khựng lại: “Chiếc áo choàng nhẹ nhõm nhường kia/ Mà có lúc tưởng chừng không mang nổi” (Trước nỗi đau của mẹ). Nghĩa đen của câu thơ là với sức vóc đàn ông của Tuấn đã không mang nổi chiếc áo trắng thầy thuốc nặng chưa đầy một cân. Câu thơ cứ bắt người đọc tò mò. Đây rồi: “Bà mẹ nghèo run rẩy nắm tay tôi/ Xin bác sĩ hãy cứu nhân độ thế”.
Đang cùng tác giả không thể cầm lòng được trước người mẹ nghèo, tôi bỗng như nghe được nhịp tim đau nhói của bác sĩ khi anh phải chứng kiến: “Ở đây cũng có chuyện buồn phiền/ Khi đồng tiền lăn tròn trên lương tâm thầy thuốc”. Tôi đã hiểu ra vì sao chiếc blouse nặng đến thế. Tôi đau cùng anh, song cũng mừng cho anh, con ma quái của cơ chế đã ập vào đến tận chỗ của tình thương, cưu người chẳng là tình thương đó sao, vậy mà anh chưa bị vướng vào, vẫn tránh được. Dính vào rồi, ăn xôi chùa ngọng miệng, há miệng mắc quai làm sao còn nói được.

Là nhà thơ, bác sĩ Trần Sĩ Tuấn không chỉ có nỗi đau nghề nghiệp, mà anh còn thấm nỗi đau đồng loại. Làm người, là nhà thơ nên anh đã cảm được nỗi đau này: “Mở mắt/ Em bé rách rưới/ Chìa bàn tay bơ vơ” (Uống cà phê). Ngụm cà phê đang uống n
a chừng, bỗng nhà thơ cảm thấy “Vị đắng tan vào lưỡi”. Nỗi đau đời đã thành nỗi đau của riêng mình, nếu không thể làm sao anh thấy mình bơ vơ: “Một mình chạy ra ngoài phố/ Đi tìm chẳng biết tìm ai”. Anh cô đơn đến nỗi: “Người ta nắm tay nhau cho ấm lại/ Anh đưa tay kia chạm phải tay này”. Tôi như đang nhìn thấy anh bơ vơ trước mặt: “Anh ngồi uống hết cả buồn say”.

Nói đến nhà thơ là nói đến nỗi cô đơn. Cô đơn giống như lẽ sống của nhà thơ vậy. Chính cô đơn giúp nhà thơ nhận biết, giúp nhà thơ chiêm nghiệm cuộc đời. Phải thấu về cái đau, thấu về nỗi cô đơn, nên anh đã rút ruột ra để mà tả: “Trong cơn mưa đầu mùa/ Cùng em đi thăm Văn Điển/ Chợt ngộ ra tưởng điều đơn giản/ Rằng cõi thiêng cũng phân biệt sang hèn” (Nhớ Hà Nội). Không là thi sĩ của nhân dân, không nhân văn, không từng trải để nhức nhối với đời, chắc chắn Trần Sĩ Tuấn không thể có những câu thơ đời đến vậy.
Càng thấm thía nỗi đau càng chan chứa tình yêu. Cũng viết về những địa điểm có địa chỉ nhưng khi nói về quê hương, thơ Trần Sĩ Tuấn chứa chan tình người: “Có một quê hương trong đĩa rau má luộc/ Năm tháng nghèo tôm cá cũng biệt tăm/ Có những quê hương trong mái rơm rạ/ Những đêm đông ấm chỗ mẹ nằm” (Quê hương).

“Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nổi thành người”.
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết vậy. Trần Sĩ Tuấn yêu từng nét cụ thể của quê hương, nói ra ai cũng thấy ngay. Tình yêu quê hương dẫn đến tình yêu con người. Con người cụ thể là tình yêu lứa đôi. Thơ tình của Trần Sĩ Tuấn cũng được mổ xẻ một cách tài hoa: “Xin em đừng khóc/ Mưa gió ở ngoài trời/ Giông bão tiếng em nấc/ Anh biết trú vào đâu” (Hối lỗi). Ngay cả lúc bão tố nhất, Trần Sĩ Tuấn vẫn bình tĩnh đến lạ lùng: “Trước mắt anh là bão tố cuộc đời/ Sau lưng là nỗi đau mất mát/ Giông bão xô đẩy anh, còn em thì lạnh nhạt/ Một mình anh nóng lạnh ở hai đầu” (Thay lời từ biệt).
Không bản lĩnh không thể rạch ròi như vậy được. Cũng như anh không hề tránh né trước dối trá của tình yêu. Nhà thơ rạch ròi chứ không để ngon ngọt làm rối lòng: “Anh trao em cả trái tim mình/ .../ Đừng bao giờ cả tin đến lạ/ Trước những lời hoa lá đầu môi/ Khi giật mình nhận ra điều ấy/ Thời gian cướp mất tuổi xanh rồi (Nhắn nhủ).
Nhà thơ đã tìm ra lẽ phải của tình yêu. Ở đây nhà thơ tỏ ra cởi mở, chân tình, đắm say cái điều phải lẽ: “Đi tìm mặt trời trong đêm đen/ Thấy mặt trời trong ngực em”. Bởi chính nhà thơ đã lý giải cặn kẽ: “Ta nhập vào nhau/ Hai cái dữ dội/ Thành cái dịu êm/ Phút giao hòa/ Thăng hoa kết trái” (Không đề 2).
                                                                               
Thơ đời và thơ tình, Trần Sĩ Tuấn rút rung động từ chính trái tim mình ra để nói cho nên nó rất rạch ròi và rất giản dị. Vậy mà khi ngẫm về đường đời. Trần Sĩ Tuấn lại tỏ ra già dặn, vững chãi một cách không ngờ, như chân lý vậy: “Đôi chân anh để lại chiến trường/ Nhưng chẳng bao giờ mất/ Lịch sử đi bằng những đôi chân đó” (Những đôi chân). Đã nhiều nhà thơ viết về đề tài thương binh, từng viết cả về những dấu giày, những chấm tròn của người thương binh còn một chân đi phải chống nạng. Nhưng “lịch sử đi bằng những đôi chân đó”, mới chỉ Trần Sĩ Tuấn khái quát.
Viết bài này, tôi rút ra những câu thơ tôi thích. Bác sĩ Trần Sĩ Tuấn đã đau nỗi đau đồng loại, nghĩ và thấm thía đời sống đồng loại nên anh đã thành nhà thơ. Cái giá anh đã tìm thấy cho thơ là tình đời. Khi làm thơ, anh đã “vắt kiệt ra để viết”. Chính anh đã tìm ra lẽ sống của mình: “Một thời không ước mơ/ Không niềm tin/ Cũng không nước mắt/ Trái tim hóa đá tự bao giờ” (Từ đá vắt ra).

Tập thơ của anh mang tên “VẮT RA TỪ ĐÁ”. Tôi lại cảm nhận những bài thơ của anh được vắt ra từ trái tim đã hóa đá. Đến đây, thêm một lần nữa tôi cảm nhận sâu sắc câu thơ của Trần Sĩ Tuấn:
Chiếc áo choàng nhẹ nhõm nhường kia
Mà có lúc tưởng chừng không mang nổi
.
N.Q.H

(nguồn: TCSH số 222 - 08 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ THẾ HÀSerenade của Peter Kihlgard là một truyện ngắn có cấu trúc hiện đại. Trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ và điểm nhìn văn bản.

  • BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

  • NHỤY NGUYÊN

    Sự đặc biệt của dòng thơ hậu chiến là luôn luôn khuấy động trong cái mênh mông vô chừng tưởng đã lắng xuống những vỉa quặng lấp lánh sau 30 năm đằng đẵng.

  • PHẠM QUÝ VINH Sau khi lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách đối nội hết sức phản động. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước.

  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.

  • HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).

  • ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.

  • HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.

  • LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.

  • HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.

  • LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.

  • VĂN CẦM HẢI       (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".

  • TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.

  • NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.