Chị tôi nuôi mộ liệt sĩ

15:59 04/09/2008
PHƯƠNG LAN                     LTS: Sông Hương nhận được tin và bài về một phụ nữ "nuôi mộ liệt sĩ" đã 15 năm, nay muốn trả lại cho gia đình của liệt sĩ nhưng không biết nhắn gửi vào đâu. Vì câu chuyện nghĩa cử đầy cảm động này và vì không chỉ là thông tin nên Sông Hương xin in luôn cả bài viết sau đây, mong bạn đọc xa gần, trong điều kiện có thể được thì nhắn tin sớm cho gia đình người liệt sĩ này.


Chị tôi, Trương Thị Dư ở thôn Hoàng Viễn, xã Sơn Thủy, Lệ Thuỷ, Quảng Bình, chồng bị bệnh, không sinh con nhưng có hai đứa con nuôi. Chị tần tảo nuôi chồng, nuôi con và âm thầm nuôi một ngôi mộ liệt sĩ trong mảnh vườn nhà mình suốt mười lăm năm nay.
Nếu tháng tám vừa rồi, tôi không về quê tìm hài cốt của một người chị ruột khác bị thất lạc trong chiến tranh thì không biết có bao giờ chị Dư tôi nói ra cái uẩn khúc về ngôi mộ ấy? Cũng như phong tục bao miền quê khác, ở làng tôi, người ta vốn kiêng táng mồ mả trong vườn. Ấy vậy mà chị Dư tôi đã vượt qua cả tập tục, bí mật làm chuyện đó!
Từ ngày đất nước đổi mới, việc tìm mộ nói chung, tìm mộ liệt sĩ nói riêng bằng phương pháp "tâm linh" mà trước đây bị coi là mê tín dị đoan đã được ghi nhận lại một cách thận trọng bằng hiệu quả của nó. Ở Quảng Trị, vùng chiến trận khốc liệt, máu xương đồng bào, đồng chí, đồng đội đổ xuống và chìm khuất trong lòng đất nhiều vô kể mà hơn hai mươi năm qua vẫn chưa tìm hết được. May thay, vùng đất ấy tự dưng xuất hiện vai người có khả năng đặc biệt "truy cập hài cốt". Họ đã chỉ ra chính xác hàng vạn ngôi mộ bị xói mòn dấu vết mà thân nhân của nó đã từng buông tay trong niềm ân hận.

Tiếng lành đồn xa, từ thành phố Hồ Chí Minh, tôi cất công ra Quảng Trị mời một người là thầy Hai về quê tìm mộ cho chị ruột của mình. Việc tìm ra mộ chị tôi là một kỳ công và cũng la một điều kỳ bí. Lúc đầu, mọi người trong nhà chưa tin lắm. Bởi vậy, ai cũng lầm rầm khấn nguyện một điều gì đó trước vong linh người quá cố để nhằm "trắc nghiệm" và đến khi ráp lại đều thấy linh ứng. Sau bữa cỗ cúng cho chị tôi được mồ yên mả đẹp, mọi người tuỳ nghi nghỉ trưa. Riêng thầy Hai cứ xẩn vẩn đứng ngồi không yên. Thầy đi ra dạo quanh vườn chị Dư trong tư thế lò dò nghi hoặc. Chị Dư tôi bỗng như người có tật giật mình theo ra ướm hỏi:
- Chú muốn tìm chi rứa?
- Trong vườn chị có mộ phải không?
- Răng chú biết?
- Biết chứ! Liệt sĩ hẳn hoi! Họ nằm ở đây mười lăm năm rồi. Bộ hài cốt này bị ăn cắp hai lần, đến tay chị và nhờ tay chị mới giữ lại được không thì đã mất tích.
Chị Dư vừa bất ngờ vừa cảm động trước việc "nói như thần" của thầy Hai và đã giãi bày sự thật.
Vào lúc 10 giờ ngày 8 tháng 3 năm 1987, khi đi làm về, chị Dư phát hiện sau vườn nhà mình có một túi du lịch lạ. Vì nhà ở gần đường tàu nên chị nghĩ đây là hành lý của khách trên tàu bị rớt xuống. Xách lên thấy nặng, chị tò mò mở ra xem thì thấy một bộ hài cốt còn nguyên được gói trong 2 lớp ni lông. Thời điểm ấy, ở ga Mỹ Sơn, cách nhà chị Dư 500 mét, người ta cũng chào xáo chuyện một hành khách đi trên chuyến tàu -Bắc mang hài cốt người nhà là liệt sỹ bị mất cắp ở gần đó. Nghe vậy nhưng người khách đã đi mất tăm rồi biết đâu mà trả lại. Chị Dư rơi vào một tình thế khó xử. Mình chị với đồng lương công nhân nông trường ít ỏi, nuôi bốn miệng ăn không đủ, lấy đâu ra tiền để chôn cất nắm xương xấu số ấy cho tử tế. Chị thắp hương cầu nguyện nhờ vong linh phù hộ... Và điều bất ngờ lại đến trong vườn chị Dư một lần nữa vào ngày hôm sau. Lần này là một can dầu hoả, không biết ai ném vào. Thời đó, dầu hoả hiếm và có giá lắm. Chị bán can dầu, đủ tiền đóng hòm mua lễ vật đầy đủ như người ta làm lễ cải táng vậy. Từ chuyện can dầu, chị Dư nghĩ bụng, người lính này linh thiêng lắm nên đã thủ mộ lại trong vườn để thờ phụng. Từ đó hàng năm, cứ đến ngày 8-3, chị Dư lại làm một mâm cơm cúng coi như ngày giỗ chính thức. Các ngày lễ, ngày Tết, chị cũng đều thắp hương tảo mộ.
Chị Dư kể xong câu chuyện bí mật của mình, thầy Hai đắc ý chắp vào:
- Cách đây không lâu, có một người ở Nghệ An đến gặp tôi nhờ tìm bộ hài cốt ấy. Chính người đó đã vào tận nghĩa trang liệt sỹ Kiên Giang đào trộm hài cốt ruột thịt của mình mang về quê từ mười lăm năm trước. Không may, bọn đạo chích trên tàu theo dõi, chúng tưởng túi trầm hoặc của cải gì đáng giá lắm mới đánh cắp. Bộ hài cốt bị mất cắp hai lần là vậy đó. Họ kể lại đúng ngày tháng bị mất, địa điểm bị mất như chị đã biết. Khi vào nhà chị, tôi đã ngờ ngợ...
Chị tôi nghe xong lấy làm băn khoăn:
- Chừ làm răng chú hè?
- Phải trả lại cho người ta chứ làm răng nữa!
Chị tôi tỏ ra bối rối và lo lắng dường như chị cảm nhận được rằng đã đến lúc và đến lượt mình phải mất một cái gì đó còn lớn hơn cả ngôi mộ. Chị tôi vốn hiền như đất, thật như đếm. Mới hơn sáu mươi tuổi nhưng do cảnh nhà túng bấn nên trông chị già hơn nhiều lắm. Đã có lúc chị nghĩ đến chuyện trả lại bộ hài cốt cho thân nhân của nó nhưng sống trong cảnh hẻo lánh thông tin, không sách báo, không ti vi, không điện đài biết nhắn gửi vào đâu?
Khi tiễn tôi đi, chị rưng rưng nói: "Em làm báo có biết mấy ông ti vi thì nhờ họ nhắn giùm cho chị với kẻo tội".
Tôi ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trên đây và mong tin này sớm đến được với gia đình người liệt sỹ, dù chị tôi phải mất đi một niềm an ủi từ trong thăm thẳm của tâm linh.
P.L
(nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VIỆT HÙNG

    “Trên đỉnh Trường Sơn, ta gặp nhau giữa đường đi chiến đấu, anh giải phóng quân Lào biên giới đẹp sao...”*- Câu hát từ thời chống Mỹ, đã trở nên xa xăm, song giờ đây, thỉnh thoảng nó vẫn vang lên trên các sóng phát thanh...

  • ÐÔNG HÀ

    Tôi là người sinh ra sau chiến tranh, lớn lên bằng những bài học lịch sử. Thế hệ chúng tôi yêu Tổ quốc theo những bài học ông cha để lại qua những trang sách cộng thêm chút tính cách riêng của chính bản thân mỗi người. Mỗi người chọn cho mình một cách thể hiện tình yêu đó khác nhau.

  • CHẾ LAN VIÊN

    Hồi ký về Đoàn Nghệ thuật Xây dựng (Huế 1946)

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                              (Bút ký)

    Ông Lê nguyên giám đốc sở Văn hoá Bình Trị Thiên, một lần về Thủy Dương lấy  tài liệu viết tuyên truyền cho vụ lúa mùa, đã cụng đầu với ông bí thư xã.

  • TẠ QUANG BỬU
                    (Hồi ký)

    Tôi đã học ở trường Quốc Học bốn năm từ năm 1922 đến 1926, cách đây đúng 60 năm.
     

  • TRỊNH BỬU HOÀI

    Đất trời đang mặc chiếc áo mới cho trần gian. Con người cũng thay chiếc áo mới cho mình. Chiếc áo khoác trên đôi vai sau một năm oằn gánh công việc. Chiếc áo phủ lên tâm hồn ít nhiều khói bụi thế nhân.

  • NHỤY NGUYÊN

    Một câu trong Kinh Cựu ước: Khởi thủy là lời. Tôi không dám khoác thêm bộ cánh mới, mà chỉ muốn tìm cho nó một mỹ từ gần gũi: Khởi thủy là mùa Xuân.

  • ĐÔNG HƯƠNG

    Trí nhớ tôi tự dưng quay trở về với tuổi thơ, tuổi ba mẹ vừa cho đi học. Ờ! Lâu quá rồi, cái Tết đối với tôi không còn ý nghĩa gì nữa, trí nhớ lơ mơ trở lại khoảng đời thơ ấu, có lẽ đẹp nhất trong đời của mỗi con người của chúng ta.

     

  • TRẦN HỮU LỤC (Tùy bút)

    Tháng Chạp ở quê tôi là tháng của hoa mai. Dường như màu của hoàng mai tươi thắm khắp mọi nẻo đường. Những chậu mai kiểng, vườn mai chùa, vườn mai nhà, đường phố mai, công viên mai, những thung lũng mai núi… đến thì lại nở đẹp một màu vàng mỏng nhẹ trong sương sớm.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU (Bút ký lịch sử)

    Nhiều năm men theo dấu chân của nàng Huyền Trân, công chúa nhà Trần mở đất Ô, Lý, hễ có dịp là tôi lại hành hương đất Bắc. Viếng đền thờ các vua nhà Trần ở làng Tức Mặc - nơi ấy nay thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định.

  • HÀ THÚC HOAN

    Những ai đã từng là học sinh trường Quốc Học - Huế đều có Một thời Quốc Học(1). Thời Quốc Học của tác giả bài viết này là ba năm học tập ở các lớp đệ tam (lớp 10), đệ nhị (lớp 11) và đệ nhất (lớp 12), từ năm 1956 đến năm 1959.

  • TRẦN HUY MINH PHƯƠNG (Tùy bút)

    Thoáng một cái, xài hết ba trăm sáu mươi lăm ngày mà hổng biết. Bao dự tính giằng co rồi dang dở, chưa kịp nghĩ thấu, chưa xiết làm xong, phân vân nhiều nốt lặng, yêu người chưa sâu nặng, nợ người chưa trả xong… ngày giũ vội qua đi. Ngẩn ngơ, mùa về!

  • THIẾU HOA Hắn! Một vị khách không mời mà đến. Hắn đến viếng nhà tôi trong một đêm mưa to gió lớn. Cả nhà ai cũng biết sự có mặt của Hắn. Đêm đầu tiên cứ nghĩ Hắn chỉ trốn mưa tạm thời rồi hôm sau sẽ đi. Nhưng đến nay đã qua một mùa xuân, Hắn vẫn còn ung dung tự tại ở trong nhà, lại ở đúng trong phòng của tôi như một thành viên chính thức trong gia đình.

  • PHAN QUANG                Trích hồi ký ... Đến thị xã Sơn La chiều hôm trước, sáng hôm sau trong khi chờ đến giờ sang làm việc với Khu ủy Tây Bắc, đồng chí Nguyễn Chí Thanh - mà các đồng chí gần gũi đều quen gọi bằng tên thân mật: anh Thao - cho mời chủ nhiệm nhà khách của khu tới.

  • VÂN NGUYỄN                 Tùy bút “Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa...” (Trịnh Công Sơn)

  • PHAN THỊ THU QUỲ Ba tôi - liệt sĩ Phan Tấn Huyên, Nguyên Chánh Văn phòng Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Thừa Thiên - thường dặn tôi mấy điều: dù khó khăn đến mấy cũng không được ngừng nghỉ phấn đấu học hành bởi tri thức là sức mạnh; dù như thế nào đi nữa cũng phải giữ cho được bản sắc văn hóa Huế rất đỗi tự hào của mình...

  • TẤN HOÀI Một khung trời mây Một dải gương lung linh cuộn quanh hoàng thành cổ kính. Trầm mặc và ưu tư. Tưởng chừng như thế!...

  • XUÂN HOÀNG Tôi được Hội Nhà văn Việt Nam cử đi thăm hai nước Ru-ma-ni và Bun-ga-ri đúng vào những ngày đầu xuân Mậu Thân, sôi động.

  • HỮU THU & BẢO HÂN                                     Ký   Đến bây giờ nhiều người vẫn chưa quên hình ảnh hãi hùng mà cơn bão mang tên Cecil tàn phá vào cuối tháng 10 của năm 1985 ở miệt phá Tam Giang của tỉnh Thừa Thiên-Huế.

  • PHẠM THỊ CÚC Thầy dạy lớp Nhì Thầy dạy lớp Nhì tên Thanh. Người thầy roi roi, hơi thấp và nhỏ con. Bù lại, thầy rất nhanh nhẹn và vui vẻ, hoạt bát, nụ cười luôn nở trên môi.