Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng với báo Tiếng Dân

09:00 07/09/2016

“Thét Tiếng Dân giữa kinh thành Huế”, đó là lời của cố Tổng Bí thư Trường Chinh tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (tháng 7/1948) tại chiến khu Việt Bắc khi ngợi ca về 16 năm hoạt động sôi nổi, ắp đầy hào khí cách mạng của tờ báo Tiếng Dân.

Vào thập kỷ 20 đến khoảng giữa thập kỷ 30 của thế kỷ XX, cả nước ta lúc đó có khoảng 150 tờ báo, tạp chí, tập san. Nhưng phần lớn các ấn phẩm đó nằm ở Nam kỳ, Bắc Kỳ, còn ở miền Trung, kể cả cố đô Huế, báo chí tiếng Việt xuất bản rất muộn. Mãi đến ngày 10/8/1927, tại Huế mới có tờ báo tiếng Việt đầu tiên, đó là tờ Tiếng Dân do chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) sáng lập làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút.

Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng được coi là một trong “tứ hổ” của xứ Quảng. Ba người kia là Trần Quý Cáp, Nguyễn Đình Hiếu và Phạm Liệu. Cụ Huỳnh lấy bằng Hoàng giáp năm 1904, nhưng ông không chịu ra làm quan dưới triều Nguyễn, mà nung nấu trong trái tim mình con đường cách mạng yêu nước, thương dân. Bởi thế ông đã cùng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Trần Quý Cáp đồng tâm, hiệp lực nhằm thúc đẩy phong trào Duy Tân, tập trung vào việc chống thuế một cách quyết liệt, nhằm giảm sưu cao, thuế nặng cho đồng bào nghèo khổ…

Để phục vụ phong trào cách mạng, chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng sau thời gian suy nghĩ, nung nấu về lợi thế của truyền thông, liền tổ chức ra tờ báo Tiếng Dân, lấy báo chí làm phương tiện đấu tranh, vũ khí lợi hại để phục vụ quảng đại quần chúng, nhất là người lao động bị áp bức, bóc lột.

Chính vì mục đích, tôn chỉ đúng đắn, hợp thời thế, thời cuộc, báo Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng nhận được sự hợp tác của nhiều cây bút danh tiếng như Sào Nam hay Việt Điểu (tức Phan Bội Châu), Trần Đình Phiên, Đào Duy Anh, Lạc Nhân (Nguyễn Quý Hương)… Theo chí sĩ họ Huỳnh “Dân là đầu mối của nước, báo này mang tên Tiếng Dân vì trong thực tế phải nhờ đến báo chí thì tiếng nói của dân mới bộc lộ ra được”. Đó chính là tuyên ngôn do ông viết trong số báo ra ngày 13/8/1927. Trước đó, trong lời phi lộ của số báo ra đầu tiên, ngày 10/8/1927, Huỳnh Thúc Kháng viết: “Nếu không có quyền nói tất cả những điều mình muốn nói thì ít ra cũng giữ cái quyền không nói những điều người ta ép buộc nói”.

Báo Tiếng Dân ra đời lập tức và kiên quyết phản đối cường quyền che đậy công lý, vạch mặt tất cả bọn xu thời, bọn quan lại sâu mọt, bọn cường hào đục khoét nhân dân. Báo Tiếng Dân ra đời, đến với quảng đại quần chúng chưa được bao lâu đã thể hiện được bản lĩnh của một tờ báo vì dân, cho dân; trong lúc chí sĩ họ Huỳnh từ chối cổ động cho phong trào thể thao Cucouroy nhằm ru ngủ, mê hoặc thanh niên, cũng không hưởng ứng sự cổ súy truyện Kiều theo cách xuyên tạc mang ý đồ xấu của viên mật thám Trung Kỳ tên là Sogny, mà hắn vẫn làm mưa làm gió thời ấy ở miền Trung.

Run sợ trước tác dụng to lớn, có hiệu quả của báo Tiếng Dân, nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa tờ báo vào ngày 28/4/1943. Quả là chữ tài đi với chữ tai một vần. Như vậy, báo Tiếng Dân hoạt động được 16 năm, hay là ngót 5.900 ngày (1927-1943). Ngót 16 năm trường, chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng kiên trì đấu tranh chống văn hóa nô dịch của ngoại bang.

Còn nhớ, khi báo Tiếng Dân ra đời, cụ Phan Bội Châu có bài viết chúc mừng, ký bút danh Việt Điểu với nhan đề “Việt điểu sào nam chi” (nghĩa là chim Việt làm tổ ở cành Nam). Đoạn cuối của bài viết “Người xưa có câu “Tam niêm bất minh, nhất minh kính nhân” – nghĩa là ba năm không gáy, mà nay một tiếng thời thiên hạ phải kinh. Dân nước ta đã mấy nghìn năm câm, bây giờ mới nói, việc đó thật đáng mừng không biết bao nhiêu mà đáng lo cũng không biết bao nhiêu. Mừng là mừng tâm phế dân ta đã có nơi hoạt động, Lo là lo tâm phế của dân ta chưa được hoàn toàn… Tôi xin các anh em, các chị em từ đây về sau gấp nhất là bổ tâm phế. Muốn bổ tâm thời cần nhất là đạo đức, muốn bổ phế thời cần thứ nhất là thực nghiệp… Dân ta lo trau dồi về đạo đức, đạo đức đầy đủ thời nhiệt thành bền chắc mà tâm huyết không bao giờ khô. Dân ta lo trau dồi về thực nghiệp, thực nghiệp đầy đủ rồi khi ăn mặc no ấm mà khí phế không bao giờ kiệt”.

Tờ báo Tiếng Dân tồn tại 16 năm dưới nanh vuốt của thực dân đã là một thành công, một hạnh phúc kỳ vỹ.

“Tâm sáng, bút sắc” đã trở thành châm ngôn của dòng báo chí yêu nước những năm 20 và đầu 30 của thế kỷ trước mà báo Tiếng Dân là tiêu biểu. Dù tờ báo đã thuộc về quá khứ nhiều thập kỷ, nhưng mục đích, tôn chỉ và sự cống hiến của chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng vẫn còn giữ được tính thời sự, vẫn bổ ích đối với người làm báo hôm nay và mai sau.

Theo Nguyễn Xuân Lương (congluan.vn)

 

 

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nhằm ghi nhận những đóng góp cho sự phát triển văn học nghệ thuật tỉnh nhà, vào lúc 15h ngày 07/01/2017, Ban chấp hành (BCH) Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) Thừa Thiên Huế đã tổ chức Lễ trao tặng thưởng tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật xuất sắc năm 2016 đồng thời tôn vinh văn nghệ sĩ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSND, NSƯT, NNND, NNƯT và đoạt các giải thưởng quốc tế, tại hội trường khách sạn Duy Tân.

  • Tiếp tục truyền thống vào mỗi đầu năm dương lịch mới, Sông Hương bao giờ cũng dành nhiều trang cho các cây bút trẻ. Năm nay cũng vậy, các sáng tác thơ, văn xuôi trong số này đa phần do các cây bút sinh sau 1980 góp sức. Thú vị hơn, một số người đã cùng Sông Hương làm nên một bàn tròn văn chương, với những tỏ bày ý kiến về nghề viết, về việc viết mà họ đã trót đam mê và dấn thân.

  • Sáng ngày 23/12, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tổ chức buổi Hội thảo “Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật và công tác tổ chức trại sáng tác giai đoạn 2016-2020” tại hội trường khách sạn Duy Tân.

  • Chiều ngày 09/12, nhân dịp kỷ niệm ngày Truyền thống Mỹ thuật Việt Nam (10/12), Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã phối hợp cùng với Chi hội Mỹ Thuật Việt Nam tại Thừa Thiên Huế và Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức triển lãm mừng ngày Truyền thống Mỹ thuật Việt Nam năm 2016 tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

  • Sáng ngày 06/12, hưởng ứng Tuần lễ Vàng kích cầu du lịch cuối năm 2016, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp cùng với Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã tổ chức khai mạc triển lãm “Bảo vật Hoàng cung triều Nguyễn” tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế.

  • Nằm trong xu thế toàn cầu hóa tri thức mạnh mẽ, trong các ngày từ 12 đến 14/ 11/2016 vừa qua, tại thành phố Đài Nam (Tainan), của Đài Loan, đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Việt Nam học và Đài Loan học do Trung tâm nghiên cứu Việt Nam thuộc Đại học quốc gia Thành Công (Đài Loan) tổ chức. 

  • Sáng ngày 23/11, nhân dịp kỷ niệm ngày Di sản Văn hóa Việt Nam, Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế đã tổ chức buổi lễ khai mạc phòng trưng bày cổ vật Chăm (Champa).

  • Vào chiều ngày 22 /11, nhân dịp kỷ niệm ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11), được sự chỉ đạo của Sở Văn hóa và Thể thao Thừa Thiên Huế, Trung tâm Nghệ thuật Lê Bá Đảng đã phối hợp cùng nhà sưu tập Lê Duy Trường tổ chức buổi triển lãm từ điển với chủ đề “Hành trình.”

  • Vào chiều ngày 16/10, Hội Nhà Văn Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Tạp chí Sông Hương tổ chức buổi giới thiệu tác phẩm của nhà nghiên cứu, phê bình lý luận văn học Trần Huyền Sâm “Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại.” Tham dự buổi lễ có đông đủ những nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, các bạn sinh viên cũng như những công chúng yêu văn học đến từ Huế.

  • Tháng Mười, không gian Huế chuyển mùa từ những cơn mưa, tiết trời mát mẻ sau những ngày nắng đổ lửa của thời “biến đổi khí hậu”. Sự chuyển mùa lan cả sang cây lá đó, như thể đã bắt đầu từ lúng liếng dịu êm ánh mắt con gái, hay chính từ bàn tay mềm mại đong đầy nữ tính của họ, chảy vào những trang văn ngập ngời hứng khởi trong cõi nhân gian… 

  • Là một trong những trung tâm văn học nghệ thuật của cả nước, trong những ngày tháng 8, tháng 9, Huế liên tục đón các văn nghệ sĩ tên tuổi trong và ngoài nước đến thăm. Trong đó đáng chú ý là buổi giao lưu của nhà thơ Du Tử Lê và cuộc triển lãm Nghệ thuật Đảo ngược của danh họa Nguyễn Đại Giang. Cũng nhân dịp này, danh họa Nguyễn Đại Giang đã tặng 3 bức tranh của mình cho Bảo tàng Mỹ thuật Huế trong tương lai. Đây thật sự là một tín hiệu vui cho văn hóa Huế. Vầng trăng tròn Mùa Trung thu đang xanh, kính chúc quý bạn đọc một mùa vang vọng thật nhiều tiếng cười thơ trẻ.

     

  • Tháng chín, mùa thu, các cánh đồng làng quê vào vụ gặt, hương lúa mới, mùi rơm rạ tỏa khắp vùng ngoại ô. Và những cơn mưa đầu mùa sau những tháng hè khát cháy đã đổ xuống, không gian như mềm hẳn ra, dịu dàng dưới mưa… Cảm nhận mùa thu rõ rệt nhất trong những ngày này đang như thể bàng bạc hơn trong không gian cỏ cây ở các làng mạc…

  • Thiên Mụ và Sùng Hóa, hai ngôi quốc tự ra đời sớm nhất tại Đàng Trong, không chỉ là điểm quy hướng tâm linh của cộng đồng mà còn là nơi thường diễn ra các quốc lễ, các nghi lễ Phật giáo quan trọng kể từ đầu thế kỷ XVII.

  • Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã nằm trên địa bàn xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên - Huế). Từ Đà Nẵng ra, nằm cách Quốc lộ 1A khoảng 10km, cách thành phố Huế khoảng 30km, con đường vào Thiền viện có đoạn đường nhựa, có đoạn bê-tông, có đoạn chạy bên bờ sông Truồi thơ mộng để đến hồ Truồi với non xanh nước biếc hữu tình.

  • Phá Tam Giang có chiều dài 24km, theo hướng Tây Tây Bắc – Đông Đông Nam từ cửa sông Ô Lâu đến sông Hương, ra cửa biển Thuận An, thuộc địa phận 12 xã của 3 huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Thừa Thiên – Huế.

  • Tiếp tục chủ đề văn học Việt Nam 30 năm đổi mới, số báo này giới thiệu bài nghiên cứu “Tâm thức hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2010”. 

  • Chùa ở Huế thường không quá rộng về mặt diện tích nhưng bề sâu văn hóa và kiến trúc độc đáo là lại in đậm trong từng nét rất riêng của các công trình nơi đây. Mà nói đến du lịch tâm linh ở đất này thì không thể không đến tổ đình Từ Hiếu đã gắn bao thăng trầm đất cố đô.

  • Trước khi lấy vua Bảo Đại năm 19 tuổi, Hoàng hậu Nam Phương từng ba năm liền đoạt giải hoa hậu Đông Dương.

  • Cố đô Huế là mảnh đất giàu chất thơ và đậm văn hóa. Đến đây, du khách không thể bỏ qua sự cầu kỳ và tinh tế của ẩm thực hay giọng ca.

  • Minh Mạng là một trong những vị Vua có đông Công chúa, Hoàng tử nhất lịch sử Việt Nam. Trong số 142 người con của mình, Công chúa thứ 4, hiệu là An Thường, được Nhà vua thương yêu hơn cả bởi từ nhỏ đã hiền hòa, hiếu thảo. Trong đó có câu chuyện về món nầm dê Vua ban khiến cả cung đình Huế cảm động.