Châu Thu Hà du lãm với "Khúc đêm"

16:14 07/05/2009
HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

Người ta vẫn thường nhắc đến những người làm thơ với một danh từ: nghệ sỹ. Tôi lại muốn nói đến cây bút trẻ ở Huế: Châu Thu Hà với một hơi thở thơ mới lạ. Đi tận cùng nỗi buồn, cảm hoá được nỗi đam mê cháy bỏng của một trái tim tự mình biết hát. Châu Thu Hà là người đem nước mắt mình để gột rửa chính gương mặt mình:
            Đêm vắng quá và ta cô đơn quá
            Người chẳng thể quay về
            dù chỉ một lần mơ...
                       
(Khúc thơ đêm)

Như trăng, như hoa, như dòng suối ngọt lịm cứ thấm dần trong dự cảm rất thực, rất đời. Châu Thu Hà đã phôi thai đứa con tinh thần đầu đời trong một lớp vỏ kén rất dày của cuộc sống. Phải có lúc va chạm thật mạnh vào mạn đá thì sóng biển mới bật lên những tiếng dạt dào ngoài đại dương xa thẳm. Châu Thu Hà cũng thế, hình như với chị, được sống hết mình với những đam mê trong tình yêu, tình đời là một đặc ân thánh thiện:
            Xin đừng gợi lại nỗi đau
            Đừng nói lời xin tha thứ
            Dẫu ngàn lần thôi chưa đủ
            Hãy nói lời yêu em!
                       
(Nói với anh)

Phải chăng đó là nỗi cay đắng xé gào trong một trái tim đỏ mọng phù sa xúc cảm. Thơ chị như làn gió nhẹ thoảng qua mà người ta run rẩy. Châu Thu Hà đã làm được phép hoán đổi giữa những mất mát trong tình yêu đôi lứa thành những nét duyên thầm trinh nữ. Những giọt nước mắt tươi nguyên của chị đã trở thành nguyên liệu để chắp cánh cho thơ chị bay bổng để có lúc vụng về:
            ...Em để tóc xoã vai
            Có người giật mình tưởng chị
            Người ta gọi ai thế nhỉ
            Em giống chị ngày xưa không?
                                   
(Chị và em)

Nhưng cũng bởi thế mà sự chân thực trong thơ chị lại lắng sâu, hài hoà. Người đọc dễ nhận thấy những tình cảm chân thành của tác giả gửi vào đó như một niềm an ủi. Ý tưởng xâu chuỗi toàn bộ tập thơ "Khúc đêm" là một ẩn số trong tình yêu, trong vô số những mất còn. Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu:
            Và cha Ran - anh cứ cuồng si
            Người đàn bà em đắm đuối
            Nơi em ở trong tim anh
            Là nơi Chúa không chiếm nổi.
                                   
(Cha Ran)

Có chút gì đó dùng dằng trong tâm hồn tác giả. Dẫu đã đi tận cùng nỗi đau mà sao vẫn cứ quặn thắt, không thôi. 46 bài thơ trong tập "Khúc đêm" là những tình cảm được tác giả chắt chiu gói ghém. Đó như là những vĩ thanh đồng điệu, cao, thấp, trầm, bổng; làm dịu cái oi ả mùa hè và làm ấm cái lạnh lẽo mùa đông. Để rồi kỷ niệm cứ cồn cào, da diết về trong tâm thức, bật thành thơ:
            Trách ngày kia ngõ ấy vẫn vô tình
            Và mùa đông anh lãng quên rất tội...
                                   
(Bậc thang mòn)

Không phá cách như một vài cây bút trẻ cả nước, Châu Thu Hà đã lặng lẽ đi tìm. Một cuộc hành trình đầy gian khổ để tự mình trú ngụ. Trong chuyến đi đầy kham khổ để bước vào con đường thi ca, Châu Thu Hà còn phải tích góp cho riêng mình nhiều hơn thế nữa. Để đừng tự mình thảng thốt "Ôi tình yêu! Ngàn năm vẫn khóc - Và muôn đời nước mắt mặn anh ơi!"

Không bao giờ người ta đổ đầy một ly nước mà nước không loang lổ. Tôi vẫn kỳ vọng ở thơ Châu Thu Hà nhiều hơn những gì "Khúc đêm" trao gửi. Nếu Châu Thu Hà biết gọt dũa nhiều hơn chút nữa trong ngôn từ, câu chữ, và tìm cho mình một nét thể hiện riêng thì hẳn tập thơ đầu tay sẽ bớt đi phần nào sự bằng lặng. Đó cũng là điều tôi muốn nhắn gửi khi đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà.

Huế, 12/02
H.H.N
(169/03-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.