VÕ MẠNH LẬP
Âm vang tiếng nổ ở cầu Ông Thượng chưa dứt thì hàng loạt tiếng súng các cỡ rộ lên chĩa mũi vào làng Lại Thế.
Ảnh: internet
Bóng dáng một thiếu niên tròn hạt mít chạy vù vù như bay hết ngõ này sang ngõ khác đề tránh xa luồng đạn. Dân làng Lại Thế một phen hoảng hồn nằm rạp xuống đất với tâm trạng bán tín bán nghi: Đánh nhau to rồi! Chưa chắc! Lại im rồi! Chuyện chi rứa?...
Vài ngày sau cả vùng mới hay tiếng nổ ấy là do thằng Huỳnh Hồng oắt con ném lựu đạn vào tụi Tây, tụi địch từ Huế về đang lân la ở vùng giáp ranh cầu Ông Thượng. Dẫu bọn chúng không bị sứt da trầy vảy gì nhưng Huỳnh Hồng vẫn đã đời. Không ai sai khiến hắn đánh đấm kiểu ấy nhưng Hồng vẫn ao ước có một ngày được cầm súng, được ném lựu đạn mỏ vịt liệng thẳng vào tụi nó cho sướng tay.
Sau vụ nổ ấy cả làng trên xóm dưới đều nhắc đến cái tên Huỳnh Hồng làng Lại Thế. Nhiều người tò mò muốn nhìn thấy mặt Hồng nhưng với bọn nhóc trong làng thì chúng không lạ gì cái thằng người tròn thúc lúc, da ngăm ngăm, lúc nào cũng độc mỗi cái quần đùi và chiếc áo cánh chỉ cài mỗi một cái cúc. Bọn chúng biết rõ mồn một Hồng là cái thằng thường xuyên liều mạng cướp pháo nổ, nhặt xác pháo để may ra có cái chưa nổ về xài. Dù xa bằng mấy, đầu làng, cuối xóm, thậm chí kể cả làng bên, hễ nghe đám cưới là hắn hăm hở có mặt. Thường thì bọn nhỏ luôn chờ viên pháo cuối cùng rơi xuống mới xông vào cướp pháo xịt, còn Hồng thì không đợi viên pháo cuối cùng rơi xuống đất hắn đã bay người vào cướp pháo rồi nhanh nhảu dí đầu ngòi xuống đất chạy ù về nhà châm lửa đốt, sung sướng thưởng thức cái âm thanh giòn giã đã ám ảnh, ngấm vào máu thịt hắn.
Ở xóm trên, Hồng có một thằng bạn khá thân có cái tên và dáng người y như con gái: Kim Thảo. Gia đình Thảo là một gia đình có truyền thống cách mạng là cơ sở tình báo của ta. Thảo tuy nhỏ nhưng cũng tham gia làm liên lạc theo đường dây từ rừng về Huế. Đã lâu Huỳnh Hồng thường lui tới nhà Kim Thảo với cái quần cộc màu đen, chiếc áo xanh bạc màu, chỉ cài một cúc áo phía dưới, lộ ra bộ ngực tròn quay như ức gà đá. Thảo thường ít quan tâm tới bọn con nít trong xóm nhưng thấy Hồng nhanh nhẹn nên có ý gần gũi muốn bắt chuyện để thăm dò ý bạn. Khi được Thảo gợi ý để hắn tham gia đường dây chuyển tin ra ngoài chiến khu, Hồng hào hứng bằng lòng ngay. Thảo cũng bỏ học, theo nghề sửa xe đạp ở Đập Đá để tiện bề liên lạc từ Huế về.
Hai thành viên nhí tình báo vừa mới cộng tác với nhau không lâu thì một biến cố ập đến: Thảo bị bắt. Nó bị bắt ngay tại Đập Đá và bị nhốt vào phòng phía hồ Tịnh Tâm. Khám xét, chúng phát hiện trong cái bị của Thảo có chứa mấy bộ quần áo địch nhằm trang bị hợp pháp cho tình báo ta tiếp cận vào Huế. Chúng còn tìm thấy tài liệu mật cất giữ trong ống sắt ghi đông xe đạp của Thảo. Tờ giấy than ghi rõ đồn Sư Lỗ bị bao vây cần chi viện gấp. Chuyến ni chắc Thảo bị tra tấn dữ đây! Huỳnh Hồng vừa thương bạn, vừa lo lắng không biết Thảo có gan chịu đòn như mình không. Nếu có một ma thuật thay thế thì Hồng mình đồng da sắt này sẵn sàng đổi chỗ với Thảo cho tụi nó tha hồ đánh đập Hồng cũng không ngán. Kiểu bị tội to thế này chắc phải tù lâu, tội nghiệp cho nó quá! Hồng thương xót bạn lắm nhưng không biết làm cách nào.
Đang ủ rũ, Hồng bất ngờ nhận được tin, Thảo có người bảo lãnh ra khỏi nơi tạm giam. Không rõ lí do gì nhưng Hồng mừng quýnh, ba chân bốn cẳng chạy đến nhà Thảo. Hồng bàn với Thảo việc đã lộ ra như ri rồi thì nên xin cấp trên cho thay đổi địa bàn hoạt động. Thảo nghĩ tới nghĩ lui thấy có lí nên đồng ý với bạn. Đang lúc băn khoăn tìm lối thì Thảo được cấp trên chuyển vô làm văn phòng thu thập tài liệu, báo chí ở Mộ Đức - Quảng Ngãi. Còn Huỳnh Hồng vẫn làm liên lạc nhưng địa bàn rộng hơn. Rứa là hai đứa lại mỗi người mỗi ngả, chúng buồn xiu nhưng nhiệm vụ thì phải thi hành thôi, biết làm sao được. Hồng ở lại, làm liên lạc từ Huế lên chiến khu Dương Hòa. Cũng có khi, Hồng được cấp trên cho đi công tác vào tận Mộ Đức, nhờ thế mà đôi bạn có dịp gặp nhau hàn huyên, mừng khôn xiết. Sau một thời gian, Thảo lại được điều về Huế làm văn thư, còn hạt mít Hồng khỏe mạnh, gan dạ, nhanh trí tiếp tục làm tình báo đường dây lên về đồng bằng vào ra cơ quan II ở Quảng Ngãi.
Được một thời gian, cái máu ưa xê dịch, đánh đấm trong người Huỳnh Hồng trỗi dậy. Hắn cảm giác công việc đang làm sao tẻ nhạt, giá như có nhiều lựu đạn trong tay và mỗi lần đi ngang qua đồn bốt địch ghé vào phi một trái thì sướng tay biết chừng nào! Hồng thấy buồn! Nhiều đêm nằm thao thức, hắn chợt nhớ đến tiếng nổ ở cầu Ông Thượng mà hắn đã gây ra ngày nào. Nó na ná như sự đam mê tiếng nổ của pháo tống thời con trẻ. Những tiếng nổ cứ ám ảnh Hồng mãi.
Thế rồi, những tin tức thắng trận ở miền Bắc, miền Nam từ Quảng Trị, Quảng Nam, Bình Định dồn dập về làm Huỳnh Hồng náo nức không yên. Hồng muốn lên thẳng Ban chỉ huy để nì nèo xin đi chiến đấu. Nhiều lần bức xúc muốn nói thẳng, nhưng Hồng cảm thấy thiếu tự tin. Hồng nghĩ đến Thảo, nó kéo bạn ra mép sông trò chuyện gần xa gạ gẫm rủ rê Thảo năn nỉ với các sếp cho hai đứa được thuyên chuyển về đơn vị chiến đấu.
Mùa xuân năm 1949, nguyện vọng của Hồng, Thảo được toại nguyện. Đôi bạn được điều về Tiểu đoàn 231 Thừa Thiên. Cả hai đều được phân làm tiểu đội trưởng thuộc trung đội trợ chiến của tiểu đoàn được trực tiếp tiếp cận với súng đạn nhưng không phải là súng trường, súng liên thanh mà là lính cối sáu mươi, tám mốt thuộc trung đội trợ chiến của tiểu đoàn. Thực lòng, Hồng không khoái công việc này lắm. Ở bên cạnh vài ba người ôm hai khẩu cối và chỉ được hành động khi cần yểm trợ dăm ba loạt đạn quả là chán. Có lúc Hồng cố vắt óc tìm ra một cách nào đó để được sử dụng súng liên thanh nhiều hơn, diệt được địch thường xuyên hơn. Thế là, Hồng lại ủ mưu tìm cách để được điều chuyển sang các đại đội tác chiến. Tiểu đoàn 231 có ba đại đội và một trung đội trợ chiến. Lần này Hồng không trực tiếp cho Thảo biết mà chỉ xa gần gợi ý nhưng xem ra Thảo không đồng tình, nó đành độc lập xoay xở đủ cách và cuối cùng cũng được chuyển sang Đại đội 107 do Tiểu đoàn phó Thân Trọng Một chỉ huy. Huỳnh Hồng mừng rơn!
Nhưng Thảo còn bất ngờ hơn. Hồng hạt mít không xin chuyển một mình mà còn chèo kéo thêm Thảo nữa, hai đứa lại còn được về chung một đơn vị, chúng nó ôm nhau nhảy cẫng. Cũng từ đó, đôi bạn luôn sát cánh chiến đấu như cái thuở ở làng quê. Hồng và Thảo biên chế cùng một trung đội. Hồng phụ trách Tiểu đội 1, Thảo chỉ huy Tiếu đội 2. Mùa hè 1953, Tiểu đoàn 231 bộ đội địa phương Thừa Thiên Huế đang ém quân ở lăng Gia Long. Lăng Gia Long là một lăng rộng có diện tích trên 3.000 ha, với nhiều khu vực thờ phụng, mộ phần: Khu Thoại Khanh quen gọi là Sở Thoại, nơi thờ phụng chôn cất mẹ vua Gia Long; điện Gia Thành gọi là Sở Gia, lăng mẹ của vua Minh Mạng (vợ không chính thức của Gia Long) và điện Minh Thành là lăng của vợ chồng vua Gia Long, quen gọi là Sở Minh...
Tiểu đoàn 231 chỉ đóng quân gọn trong Sở Thoại. Những ngày nghỉ ngơi như thế, lính trẻ cỡ như Huỳnh Hồng tuy ăn đói ở khổ nhưng máu làm lính luôn luôn hừng hực, muốn xông pha trận mạc. Huỳnh Hồng tha thẩn như kiểu đi ngắm lăng nhưng thực lòng là đi hóng tin về những kế hoạch tác chiến của Ban chỉ huy tiểu đoàn. Đầu óc Huỳnh Hồng đang miên man tưởng tượng đến một trận đánh lớn thì bỗng nhiên có tiếng gọi trầm ấm nhưng vang từ bên trong dãy nhà thờ Sở Thoại hắt ra:
- Hồng! Vô đây tau nói chuyện ni.
Huỳnh Hồng giật nảy người nhưng nhanh chóng định thần lại bởi cái giọng uy quyền quen thuộc của vị chỉ huy Tiểu đoàn phó Thân Trọng Một. Huỳnh Hồng quay phắt người, hai chân rập khít vào nhau và “dạ” một tiếng rõ to.
- Vô đây! Vô đây! Chỉ huy Một giục. Mi là lính trinh sát. Mi và Trung đội 4 về đánh đoàn tàu của địch ở Phú Lộc để mừng sinh nhật Bác lần thứ 63 có được không?
- Dạ! Dạ! Huỳnh Hồng mừng quýnh và dạ lia lịa như vừa vâng lệnh, vừa chào để nhanh quay về đơn vị báo tin vui.
- Chi mà hấp tấp rứa? Đánh được tau sẽ cưới cho mi một con vợ thật đẹp ở dưới quê bà Đầm, quê vợ của tau biết không? - Ông vỗ bàn tay thân mật lên vai Huỳnh Hồng như để gửi gắm lời hứa khi chiến thắng trở về.
Về đơn vị thì mọi người đang xôn xao bàn tán rôm rả. Thì ra anh em đã biết lệnh này. Làm người lính được đi đánh trận là sung sướng lắm, nhưng trận này còn có ý nghĩa là món quà mừng sinh nhật Bác thì sung sướng bội phần!
Nói là Trung đội 4 nhưng thực chất chỉ có vài người tham gia trận đánh: Nguyễn Văn Dũng, Hoàng Kim Thảo và Huỳnh Hồng, còn Tú là lính của C230 đang đóng quân ở đồn điền Ngô Đình Khôi bổ sung thêm.
Huỳnh Hồng và Thảo được giao làm nhiệm vụ trinh sát. Sau vài ngày chuẩn bị bom mìn, Huỳnh Hồng và Thảo kẹp hai khẩu Mút-cơ- tông dài ngoằng, băng rừng lội suối suốt đêm để đến tận đồn điền Ngô Đình Khôi (em ruột Ngô Đình Diệm), địa điểm lí tưởng nhất để quan sát sự di chuyển của địch trên tuyến đường ray qua lại vùng cầu Truồi, cầu Đá Bạc và cầu Đá Dầm.
Đôi bạn thân vừa leo lên đến mỏm đồi cao dưới đồn điền Ngô Đình Khôi thì trời gần sáng. Trước mắt là những luồng đèn pha ngược xuôi của ô tô, thế là mục tiêu cần đến đã được xác định. Suốt một đêm dài không chợp mắt, lại mò mẫm địa hình, địa vật một cách chi tiết từng tấc từng mét đất nên khi vừa đặt lưng xuống tảng đá mát lạnh Huỳnh Hồng đã lăn ra ngủ, tiếng ngáy vang rền. Thảo lay mạnh vào vai:
- Dậy! Dậy! Tau lạy mi, trời sáng rồi, tụi nó đi tuần phát hiện ra thì toi.
- Khoan đã nờ, tau ngủ chút đã, mắt trít cứng thế ni tau không dậy nổi.
- Có nhớ tầm quan trọng của trận đánh mà ông Một đã dặn không? Ở đó mà ngủ hi, tau đi đây!
- Ơ ơ, chờ tau với!
Huỳnh Hồng choàng tỉnh, vội vàng đưa tay dúi mạnh vào hai con mắt cay xè rồi cầm súng đi tiếp. Huỳnh Hồng và Thảo đang hăm hở đi bỗng một con mang vượt qua trước mặt. Cái máu săn bắn bốc lên, Huỳnh Hồng quên đi mọi chuyện, bản năng giơ súng định bóp cò. May thay Thảo đã kịp ngăn lại đưa Hồng trở về thực tại với nhiệm vụ đang đi trinh sát của mình. Anh em trong đơn vị thường khen Huỳnh Hồng gan dạ, dũng cảm nhưng cũng rất cá tính ngang bướng, bốc lửa, lắm lúc còn pha chút liều lĩnh đáng gờm. Còn Thảo trầm tĩnh chín chắn trái ngược với Hồng. Anh em thường chê anh nhát gan nhưng Hồng nhận ra ở Thảo có sự bình thản, thận trọng chín chắn trong ứng xử. Hai đứa như một nửa của nhau, bổ trợ cho nhau. Nhờ Thảo cầm cương, Hồng cũng đã bớt đi rất nhiều cái tính hung hăng liều lĩnh của mình.
Về đến điểm tập kết, Hồng lăn ra ngủ một giấc dài đến 10 giờ sáng. Vừa tỉnh giấc, Nguyễn Văn Dũng đã báo tin sốt dẻo:
- Tàu chúng nó chạy lại rồi. Đánh thôi!
- Thật không? Dây dợ đã đủ mô mà đánh? - Hồng vội hỏi Dũng.
- Tàu nó tạm ngưng năm ngày vừa chạy lại. Lau sạch mắt đi để nhìn thấy đống dây tau mới gom về tề.
Mấy anh em xúm lại hì hục suốt mấy ngày đêm mới chắp nối xong dây, gom góp đủ bộc phá, kíp nổ và nhanh chóng về lại mục tiêu đã định sẵn. Khi cài đặt bộc phá, giăng dây và ngụy trang xong, Huỳnh Hồng nhảy xuống một cái hố sâu có hình dáng giống như cái âu tát gàu sòng, bên trên cỏ mọc um tùm. Tú ngồi phía sau. Thảo và Dũng vừa yểm trợ vừa cảnh giới, cách chỗ Hồng suýt soát trăm mét.
Còi tàu hú vang thành chuỗi. Cơ hội đây rồi! Huỳnh Hồng tì đầu gối vào bờ đất, cuộn hai vòng dây vào bàn tay. Áng chừng cự ly đầu tàu vượt qua, Huỳnh Hồng dùng sức giật mạnh. Phựt! Dây đứt, máu ở hai bàn tay Huỳnh Hồng ứa ra tràn trề. Đầu tàu xình xịch phụt khói và ung dung chạy qua như không có việc gì xảy ra. Máu trong người Huỳnh Hồng như sôi lên sùng sục. Huỳnh Hồng quay lui phía Tú để cầu cứu. Tú đã mất hút đâu như ma biến. Huỳnh Hồng vừa quay quắt tiếc nuối, vừa trườn lên, dán đôi mắt vào đầu tàu quan sát. Ối! Người đi lại trên các toa gần như hầu hết là dân thường. May mắn quá, đấy là đoàn tàu chợ! Đánh địch không trúng mà gây thương vong cho dân là tội lớn không thể tha thứ. Hú vía! Hồng thấy nhẹ cả người. Nhìn quanh quẩn không thấy bóng dáng đồng đội, bất chấp hai bàn tay còn rớm máu, Huỳnh Hồng quyết định bò nhanh qua một trảng cát. Sợ các cuộn dây bị lộ, Hồng nhanh chóng nằm ngửa người chôn toàn thân xuống bùn ruộng, chừa mỗi đôi mắt, rồi nằm ngửa lết người dọc theo hướng bộc phá, chắp nối lại múi dây bị đứt và dí chìm toàn bộ xuống bùn. Tất cả đều diễn ra trong im lặng và mau lẹ. Phía cầu Đá Bạc, cầu Đá Dầm bọn địch vẫn lăm lăm tay súng, rướn cao cổ, mở mắt to, dòm ngó, soi mói chung quanh.
Gần trưa, tiếng còi huýt vang báo hiệu tàu từ cầu Truồi sắp đi vào. Hồng nhanh chóng quan sát tình hình: Đúng tàu chở lính! Hồng cuốn nhiều dây vào bàn tay máu khô đen lao tới. Tàu vẫn xình xịch chạy, 100m, 80m, 30m rồi 20m. Ầm! Một cột lửa tóe lên, khói đen ngòm, dựng đứng bao trùm gần nửa đoàn tàu. Huỳnh Hồng nhảy lên mặt đất tháo chạy về phía bìa rừng mặc sau lưng đạn bắn đuổi xối xả. Gặp Tú, cả hai lao chạy như bay về phía đồn điền Ngô Đình Khôi. Vai phải Huỳnh Hồng trúng đạn, máu ròng ròng cả một góc người. Huỳnh Hồng lảo đảo như muốn gục nhưng Dũng, Thảo cố dìu Huỳnh Hồng về đến núi an toàn.
Thời điểm này, Tiểu đoàn 231 đã dời quân về nhà thờ Thác Nộ, chiến khu Dương Hòa. Trên đường về Ban chỉ huy tiểu đoàn để báo cáo kết quả trận đánh, trong đầu Huỳnh Hồng hiện lên hình ảnh vị chỉ huy Tiểu đoàn phó Thân Trọng Một giản dị, tháo vát, uy nghiêm nhưng cũng thân thiện. Hồng nhớ mãi từng lời vang ấm của ông trong lần giao nhiệm vụ ở Sở Thoại, lăng Gia Long. Hồng và đồng đội đã không phụ lòng sự tin cậy của chỉ huy. Anh cảm thấy vui và háo hức được gặp ông. Nhưng chợt nhớ đến lời thủ trưởng hứa hẹn tìm vợ cho mình, Hồng cảm thấy bối rối, ốt dột. Chừ mà vợ con chi, đánh giặc cái đã chơ!
Về tới nhà thờ Thác Nộ thì nghe tin Tiểu đoàn phó Thân Trọng Một đi công tác xa. Huỳnh Hồng vừa bước vào nhà thờ chưa kịp thực hiện khuôn phép điều lệnh quân đội thì Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Chi từ trong nhà đi nhanh ra ôm lấy Huỳnh Hồng rồi bế xốc lên:
- Có biết kết quả đánh đoàn tàu ra răng chưa?
- Dạ! Báo cáo, ta diệt một đầu máy, sáu toa tàu và mấy chục tên địch. - Hồng báo cáo.
- Con số bị diệt là ba trăm tên. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Chi cải chính.
Nghe đến con số kết quả của vị chỉ huy khẳng định, Huỳnh Hồng há miệng to ra nhưng không nói được nên lời.
Ông Chi còn cho biết, cái giá đáng kể của trận đánh là ta đã bẻ gãy chiến dịch Át Lăng do tướng Nava đề xướng nhằm chiếm lại vùng tự do Liên khu 5 để nối dài vùng chiếm đóng của Pháp từ miền Đông Nam Bộ kéo một mạch ra đến Bình Trị Thiên. Ông còn ra lệnh cho ông Nguyễn Văn Hùng lấy quỹ của tiểu đoàn thưởng cho Huỳnh Hồng và đồng đội 120 đồng.
Lần đầu tiên trong đời Huỳnh Hồng nhận số tiền quá lớn nhưng có lẽ điều làm anh sung sướng nhất và nhớ mãi trọn đời là đã lập được công lớn.
V.M.L
(TCSH47SDB/12-2022)
NGUYỄN QUANG HÀ Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.
VĨNH NGUYÊN Truyện kýSau “vụ” gặp em, tôi băn khoăn lắm lắm. Là bởi trước đó - trước quả rốc-két mà chiếc F4H phóng xuống và em bị thương dưới đùi, em đang chờ tháo dây thuyền ở hốc đá, còn tôi thì giữ lấy ống ti-dô cho nước vào hai cái thùng phuy trên thuyền cho em. Hai chiếc thùng phuy 400 lít nước sắp tràn đầy. Như vậy là quá đủ thời gian cho chúng ta có thể hiểu biết về nhau, tên tuổi, quê hương bản quán.
ĐẶNG VĂN SỞ Ghi chépKhông hiểu sao tôi lại đi tìm anh - anh Nguyễn Đức Thuận - người anh chú bác ruột cùng chung sống dưới một mái nhà với tôi. Tôi chỉ nhớ là hồi đó chồng của cô tôi nằm mơ thấy anh, và bác vào tận Nha Trang để đi tìm anh Mậu, người đồng đội và là người chứng kiến lúc chôn cất anh.
NGUYỄN QUANG HÀMột buổi sáng vợ chồng anh Thảo, chị Ái đang đèo nhau, phóng xe Honda trên đường Nguyễn Trãi, một con đường lớn của thành phố Huế, bỗng có một người lao thẳng vào xe anh Thảo. Nhờ tay lái thiện nghệ, nên anh Thảo đã phanh xe kịp. Hai vợ chồng dựng xe, ra đỡ nạn nhân dậy.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGBút kýAnh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh...
ĐÀO XUÂN QUÝĐã lâu lắm, có đến hơn hai năm, kể từ khi bị tai nạn ở chân tôi chưa đi vào các hiệu sách, kể cả các hiệu sách ở Nha Trang. Đi tới các hiệu sách thì xa quá, đi bộ thì không đi nổi, mệt và nóng lắm, mà đi xe thuê thì cũng khó, vì họ không phải chỉ đưa mình tới nơi mà còn phải đợi hàng giờ khi mình phải tìm chọn sách nơi này nơi nọ, quầy này quầy khác v.v...
NGUYỄN THANH CHÍHai mươi tám tuổi, nó không biết chữ và không quen đi dép, mặc áo quần dài; lầm lũi, ít nói nhưng rất khoẻ mạnh... Với nó rừng là nhà, các lối mòn trong rừng thì thuộc như lòng bàn tay... Đó là Trương Ngọc Hoàng, sinh năm 1977.
NGUYỄN TRỌNG BÍNHMọi chuyện xẩy ra suốt 55 ngày đêm ở đơn vị trong cuộc tổng tiến công nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi đều nhớ như in. Thế mà, lạ lùng thay, suốt thời gian đó, hàng ngày mình ăn thế nào, lại không nhớ nổi. Chỉ nhớ mang máng có lúc ăn cơm nắm, ăn lương khô. Về giấc ngủ, có thể là tranh thủ nửa ngủ nửa thức giữa 2 trận đánh hoặc lúc ngồi trên xe trong đội hình hành tiến. Cố hình dung, tôi nhớ được bữa cơm chiều ở dinh Độc Lập, hôm 30-4-1975.
NGÔ MINHỞ CỬA NGÕ XUÂN LỘCSư Đoàn 7 thuộc Quân Đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975.
HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)
LÊ HOÀNG HẢICon người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.
HỒ NGỌC PHÚTôi về lại Huế sau trận lụt tuy muộn nhưng khá lớn vào gần cuối tháng 12 năm 2004. Ngồi ở quán cà phê Sơn bên bờ chân cầu Trường Tiền, nhìn sông Hương vào lúc sáng sớm sao thấy khang khác, trong có vẻ như sáng hơn ngày thường.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGĐã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm thấy tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cánh hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.
NGUYỄN THẾ QUANG(Chuyện tình chưa kể của nhà thơ Hoàng Cầm)
VÕ NGỌC LANTôi sinh ra và lớn lên tại vùng Kim Long, một làng nhỏ thuộc vùng cận sơn, không xa Huế là bao. Bởi thuở nhỏ chỉ loanh quanh trong nhà, trong làng ít khi được “đi phố” nên đối với tôi, Huế là một cái gì thật xa cách, thật lạ lùng. Đến nỗi tôi có ý nghĩ buồn cười: “Huế là của người ta, của ai đó, chứ không phải là Huế của tôi”, ngôi chợ mái trường, một khoảng sông xanh ngắt và tiếng chuông chùa Linh Mụ... mấy thứ ấy mới là của tôi.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhân một lần ghé ngang Paris , võ sư người Huế Nguyễn Văn Dũng đã đi thăm sông Seine. Đứng lặng lẽ bên dòng sông thơ mộng bậc nhất nước Pháp, bỗng lòng ông nhớ sông Hương quá trời. Về lại Việt , ngồi bên bờ sông Hương, ông vẫn hãy còn thấy nhớ cồn cào cái dòng chảy thầm thì trong sương mù như một nhát cắt ngọt ngào giữa trái tim đa cảm.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTôi rẽ vào nhà Thiệp để đưa bé Miên Thảo đi học. Cô bé hét vang nhà để bắt tìm cho ra chiếc dép đi trời mưa lạc nơi đâu không biết. Miên Thảo mặc chiếc quần Jean xanh và khoác áo len đỏ, choàng một chiếc phu la cổ màu đen trông thật đỏm dáng.
NGUYỄN QUANG HÀSông Bồ là con sông không dài, nhưng đẹp ở về phía Bắc Huế. Phía tả ngạn, hữu ngạn vùng thượng lưu sông là hai huyện Phong Điền và Hương Trà, vùng hạ lưu sông chảy qua Quảng Điền rồi đổ vào phá Tam Giang. Làng xóm hai bên bờ sông khá trù mật.
MINH CHUYÊN (Tiếp Sông Hương số 12-2008)
MINH CHUYÊN (Tiếp theo và hết)