Sự sùng bái tôn ti trật tự trong nhà là một thứ áp bức đè nén “tự nhiên” mà người ta không ý thức ra nữa, thậm chí còn được tôn vinh, nó khuyên dụ người ta phủ nhận cách thức nhìn nhận mỗi cá nhân như một nhân cách độc lập và tự do, với những phẩm chất gì, năng lực gì, đức hạnh gì, nó chỉ giục người ta nhăm nhe soi mói vào “địa vị-thân phận” của mỗi người, cái được xem như “cốt yếu” mà thôi.
Chiếc điện thoại ốp trên kính xe phía trước đang chạy chương trình dẫn đường trên cao tốc chợt rung chuông và hiện tên người muốn nối gọi “chat internet”. Cô bạn ngồi bên tủm tỉm “chết nhé, có em nào gọi, tên chị em kia kìa... Trả lời đi...”. Đang mải ngó xe pháo vùn vụt nơi các làn đường đang phân chia nhánh, tôi không phản ứng gì ngay...
Lấy sang được đường nhánh bên trái rồi… thở phào. Xe cộ chỗ vừa rồi vi vút cứ như lũ máy bay sắp cất cánh vậy!
“Điện thoại vẫn đang réo kìa, anh trả lời đi!”
“Thôi, để chốc nữa thư thả gọi lại cũng được, mình đang đi đường.”
“Giấu em nào a...”
“Đây là mẹ anh gọi đấy.”
“Ơ, em thấy chỉ hiện tên không thôi cơ mà.”
“Đúng vậy.”
“Thật á!? Phịa! Ở Việt Nam chẳng ai lại ghi tên bố, tên mẹ, tên ông, tên bà trống không trên danh bạ máy như thế đâu! Phạm thượng chết! Người ta chỉ ghi ‘bố’, ‘mẹ’, ‘ông’, ‘bà’ trên
danh bạ, thế thôi!”
Tôi mỉm cười “thế mỗi người có tên riêng để mà làm gì nào? Chỉ để khai báo cho công an thôi à?”
“Anh phức tạp lắm!” - kèm theo cú đấm không hề nhẹ vào vai...
... Chúng tôi đã rời đường cao tốc, rẽ về đường miền quê yên ả rực ánh nắng vàng.
**
Các bạn đọc báo sẽ thấy truyền thống “lửng tên” tỏa khắp ở xứ sở. “Nước ta” thay cho “Việt Nam”, “làng ta” thay cho… đôi khi quên cả tên rồi, “chủ tịch ta”, “thủ tướng ta”, “bộ trưởng ta”, “người phát ngôn ta”… Có cả một số bài báo mà từ đầu đến cuối chỉ thấy chữ “thủ tướng”, thường lại còn được viết hoa lên nữa “cho nó đẹp”, và nếu không soi tìm ngày tháng của những bài báo này và không sành sỏi lịch sử về các vĩ nhân Việt Nam đương đại thì không thể nào biết “thủ tướng” đây là ngài nào.
Chuyện này, đừng đổ lỗi cho nền kiểm duyệt, những nhà báo đó nhé.
Tất nhiên, nền tảng của câu chuyện này sâu xa hơn như thế rất nhiều.
**
Ngày trước nữa, có những trường hợp nhiều đứa trẻ chỉ biết tên ông, tên bà của mình một khi… dự đám tang của ông, của bà, buồn và tiếc thay… Suốt cả thời thơ ấu, chúng chỉ biết gọi “ông”, gọi “bà” khi ở trong nhà, và lúc ra ngoài thì được hỏi, và tự gọi “ông cháu”, “bà cháu”. Đôi khi mấy ông bà có được gọi tên đi chăng nữa, thì lại là những cái “tên gọi thay” của con giai đầu của ông, của bà… thậm chí của cháu giai đầu… Kể ra gần đây thì tên tuổi của các cụ cũng đã có rõ ràng dần hơn lên vì chữ nghĩa đã được phổ cập hơn, giấy tờ hành chính đã nhiều nhặn hơn.. Tuy nhiên việc sử dụng tên tuổi vẫn là một câu chuyện khác.
Chuyện gì được ẩn sau hiện thực này?
Trong một gia đình người Việt, thường là đại gia đình nhiều thế hệ và họ hàng, người ta đặt giá trị quan trọng nhất là cái “tôn ti trật tự”, và làm sao cư xử với cái tôn ti đó. Cái tôn ti đó là căn yếu, là “cực kì quan trọng”, là “không thể nhầm”, vì nó xác định “địa vị” của một người trong cái nhà đó, và từ địa vị đó, một “thân phận” được chia cho người đó. Địa
vị-thân phận này không chỉ quyết định vấn đề “quyền lợi”, nó còn quyết định luôn cả vấn đề “chân lý”: trên đúng, dưới sai.
Về triết học, trong một gia đình cổ truyền không tồn tại “cá nhân”. Chỉ có những yếu tố đã được định vị như là “địa vị” và cùng với chúng là những “thân phận” bị qui định, và mỗi con người sẽ được bắt vít ứng vào những yếu tố đó. “Địa vị-thân phận” đó vững bền và chắc chắn như những chiếc đinh được đóng sâu mãi, sâu mãi vào “bức tường gia đình”, không ai đặt câu hỏi hoặc có quyền đặt câu hỏi về chúng, mấy vị chữ nghĩa thì gật gù rằng đấy là “đạo”. “Địa vị-thân phận” khuyến kéo đầu óc con người về phía “thực hiện thế nào” để thực thi tập tục, chứ không bao giờ mời gọi người ta về phía lựa chọn “làm thế này, hay bỏ, hay làm khác đi”.
Khi bạn bước vào bậc cửa của một gia đình Việt, công việc quan trọng nhất của bạn không phải là “biết tên” những người trong gia đình ấy - thậm chí bạn không có quyền biết tên những người ở “vị thế trên cao” trong nhà; mà là biết ra cái cấu trúc tôn ti “địa vị-thân phận” trên dưới ở trong nhà ấy như thế nào. Bạn sẽ gọi mỗi người trong nhà theo cái tôn ti ấy, như thế là cần-và-đủ, những “cụ”, “ông”, “bà”, “bác”, “cô”, chú”, “anh”, “chị”, “em”, “cháu”, “chắt”… Cẩn thận: có những người rất ít tuổi nhưng lại có thể là “ông”, là “bà” trong đại gia đình đó do họ thuộc về “nhánh trên” của đại gia đình.
Bạn thưa gửi với một người giờ đây không phải là thưa gửi trực tiếp với chính người đấy, mà là bạn thưa gửi với cả đại gia đình của người đấy, thông qua người đấy! Mỗi người trong gia đình là một nhân viên, một “tùy viên sứ quán” với các chức vụ tùy theo của “quốc gia gia đình” ấy.
Tiếng Việt không “chia động từ”, nhưng “chia ngôi thứ tôn ti” là điều vô cùng căn bản, chia chưa xong thì chưa bắt đầu được giao tiếp, mà chia hỏng thì là tai nạn.
**
Phức tạp quá ư? Chuyện đâu đã hết. Như thế, vẫn còn là đơn giản.
Mỗi lần bạn quay lại một gia đình đã quen, bạn phải thắp hết các giác quan của mình lên để mà nghe ngóng cho ra cái cấu trúc địa vị-thân phận của gia đình ấy có biến động không, nếu có thì ra sao.
Nói ví dụ, cặp vợ chồng son nọ bữa nay mới có một em bé đầu ra đời.
Cái gì xảy ra? Có thể rằng đó là một cuộc “cách mạng vĩ đại” đã xảy ra trong gia đình này.
Đó là việc tất cả các nhân viên của cả nhà đã “lên chức”. “Ông”, “bà” đã thành “cụ” và ... “cụ”. Hai “bác” đã thành “ông” và “bà”. “Anh”, “chị” đã thành “bác” và… “bác”… Bạn phải thay đổi toàn bộ cách gọi quen thuộc của bạn với những người trong gia đình này, và kể cả… bạn phải tự gọi xưng lại chính mình cho tương hợp, đây là một vấn đề… nghiêm túc.
Tại sao như vậy?
Vì đó là cách thức duy nhất để bảo tồn các địa vị-thân phận trong một nhà, trong hoàn cảnh mới.
Bí quyết là gì? Trong một nhà người ta lấy cái địa vị-thân phận thấp nhất trong nhà mới nảy sinh, rồi qui chiếu các địa vị-thân phận cũ vào đó để mà thiết lập lại địa vị-thân phận mới. Để ví dụ, quan hệ “mẹ” - “con” vốn là quan hệ trực tiếp trước đây, thì nay vì “con” mới đẻ em bé nên quan hệ “mẹ” - “con” cũ từ nay đã bị giãn cách, đã bị gián tiếp hóa, trở thành quan hệ “bà”- “mẹ”, một quan hệ từ nay luôn luôn bị đi vòng qua cái địa vị-thân phận thấp nhất trong nhà mới nảy sinh. Trong hiện sinh này, con người bị mất đi các mối quan hệ trực tiếp giữa các cá nhân, các mối quan hệ ấy bị gián tiếp hóa vì các cá nhân đó bị xoá thêm một lần. Và cứ mỗi một thế hệ được sản sinh thêm ra thì các mối quan hệ vốn có càng trở nên gián tiếp hóa thêm ra, “xa cách thêm ra”.
Nói chuyện có lần tôi mời một bạn trẻ đến sửa lại căn phòng nhà. Lúc rảnh tay chuyện trò con cà con kê thế nào rồi bạn ấy kể “em tuy ít tuổi, nhưng ở quê em, em có một đứa cháu nay đã gần sáu mươi tuổi, nó làm giáo sư tiến sĩ ở tỉnh, nó phải gọi em là ông trẻ”. Trong giây phút này, bạn ấy chợt như thay đổi hoàn toàn thân phận mình, rất hăng hái… “mỗi lần ngồi ăn giỗ họ ấy à, em chỉ cần liếc mắt một cái thôi, là nó phải giang hai tay ra đón lấy bát em, đon đả ‘để cháu xới cho ông ạ’” - trong phút này ánh mắt bạn ấy nhìn tôi như chính là đứa con đứa em của đứa cháu họ gần sáu mươi của bạn ấy.
**
Sự sùng bái tôn ti trật tự trong nhà là một thứ áp bức đè nén “tự nhiên” mà người ta không ý thức ra nữa, thậm chí còn được tôn vinh, nó khuyên dụ người ta phủ nhận cách thức nhìn nhận mỗi cá nhân như một nhân cách độc lập và tự do, với những phẩm chất gì, năng lực gì, đức hạnh gì, nó chỉ giục người ta nhăm nhe soi mói vào “địa vị-thân phận” của mỗi người, cái được xem như “cốt yếu” mà thôi. Từ trong môi trường này mà mỗi đứa trẻ Việt lớn lên, và cái mà nó được nền tập tục này hướng dẫn cho đương nhiên là nhãn quan “địa vị-thân phận” chứ không phải là những cá nhân tự do với các năng lực và phẩm chất riêng tư. Nạn say mê tước vị đã được vun xén kĩ càng, bằng một cách vô cùng “tinh tế” từ đây.
Tất cả những tập tục rối rắm này không chịu dừng ở bậu cửa trong nhà.
Trong một quốc gia cổ truyền, luật lệ trong nhà ngập tràn ra làng, ra hè phố. Nói về triết học, “quốc gia cổ truyền” là “quốc gia” đang rục rịch hình thành, rất chậm chạp, rất lâu la, chả có gì để ảo tưởng. “Quốc gia” cổ truyền chỉ là dạng liên kết lan tỏa khá lộn xộn tùy hứng giữa các nhà, các làng, lúc thì mạnh lên, lúc thời rời rạc cát cứ, tuy nhiên trong xu hướng dài hạn thì liên kết ấy sẽ mạnh dần dà lên, nhất thống dần dà lên.
Vậy nên ở bên ngoài bậu cửa mỗi nhà chúng ta cũng “tự nhiên” có một xã hội na ná như thế, một xã hội khuyến dụ sự bon chen để làm sao leo lên được cái thang “địa vị-thân phận”, dẫu là nhiều cái thang ấy nhiều khi chỉ là hoàn toàn hư danh. Cái tên riêng nơi công quyền rồi thì cũng như thế thôi, không quan trọng, cứ “sếp” (to), “sếp” (nhỡ), “sếp” (vừa), “sếp” (nhỏ) là xong, thậm chí cũng tránh gọi luôn tên riêng với “sếp” (to), “sếp” (nhỡ)… Tất cả đều được quy suy ra vòng qua cái địa vị-thân phận thấp nhất… là “dân”, “dân” thì còn dưới cả “dân phòng”, “dân vệ”, “dân binh”...
Người Việt bước ra đời cảm thấy nếu mình không có một cái chức gì, không có một cái tước gì để khoác lên mình, mà chỉ có độc mỗi cái tên riêng của mình, thì nào khác gì mình tồng ngồng ở truồng vậy.
Cho nên các chức vụ cứ thế mà phải tự được nhân lên, để còn trao cho nhau, cho bớt trống trải. Không có chức gì tước gì nữa, thì ít nhất cũng có cái bằng khen, giấy khen, danh hiệu, vân vân và vân vân. Giới thiệu ai mà không có tước có vị thì nghe thật là nhạt mồm nhạt miệng, không ai muốn nghe cho phí tai.
Xã hội hão huyền háo danh có nền tảng thật là sâu xa, và thật là bền vững.
**
Tiếc thay, nhiều người Việt không hiểu rằng cái tên riêng của mình mới là điều vừa độc đáo vừa lớn lao, nó độc đáo và lớn lao đến đâu thì tùy thuộc vào những phẩm chất của chính riêng mình.
Cái tên “Nguyễn Du” thả hồn Kiều là tự đủ, không tước vị gì so bì được.
Cái tên “Lỗ Tấn” tạc hồn AQ là tự đủ, không hàm phẩm gì đáng để khoác vào thêm.
**
Con người cá nhân Việt, xã hội Việt rồi sẽ phải lớn lên, các giá trị của tự do, tài năng và phẩm hạnh cá nhân rồi sẽ phải được tôn thờ và phát triển.
Đống các hão danh rồi sẽ được tâm hồn Việt vui vẻ nâng niu đem cất chúng vào bảo tàng dân tộc học.
Nguồn: Hoàng Hồng Minh - Tia Sáng
Có những thứ sẽ dần trôi tuột theo năm tháng, guồng quay của cuộc sống hiện đại có thể đã làm biến đổi phần nào giá trị của Tết. Nhưng nếu biết lắng lại, nghĩ khác đi thì Tết dường như vẫn luôn vẹn nguyên trong tâm thức mỗi người.
Nếp nhà lãng đãng khói hương như chiếc cầu nối với quá khứ. Hồn người tĩnh tại, thong dong hòa quyện miền tâm linh thăm thẳm. Nhưng không phải dịp Tết đến ta mới thấy nhẹ nhàng. Bất cứ khi nào đứng trước ban thờ tiên tổ, bao bộn bề, lo toan đều tự nhiên rũ bỏ, để gia tâm bảo vệ những gì tốt đẹp của tinh thần.
Vừa qua, một số cá thể thiên nga đã được thả vào hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Việc làm này đã gây nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận. Dù sau đó, các cá thể thiên nga đã được di chuyển đến một địa điểm khác song từ sự việc này nhiều người tỏ ra băn khoăn bởi hồ Hoàn Kiếm vốn được coi là nơi linh thiêng, hơn nữa hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn còn là Di tích quốc gia đặc biệt.
Khi toàn cầu hóa, nhiều người mới ý thức rõ hơn tầm quan trọng của sáng tạo. Nhiều quốc gia coi sáng tạo là nguồn lực chính trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, bên cạnh động lực cũng tạo ra nhiều thách thức đối với khả năng sáng tạo của con người.
“Hiện thực” của đời sống hiện ra trước cái nhìn của chúng ta luôn luôn là một hỗn hợp, một nồi súp lẩu của “thực tế” và “tri nhận”, không tách bạch, và không dễ tách bạch được.
Nuôi dưỡng tâm hồn ham đọc sách từ bé cho con, sẽ giúp con dễ dàng vượt qua được giai đoạn khủng hoảng của tuổi mới lớn, giúp con mạnh mẽ đối mặt với những thay đổi của bản thân, và sóng gió của cuộc đời.
Để không bị lãng quên giữa các loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại, sân khấu cải lương nói riêng, nghệ thuật truyền thống nói chung, đang tìm cách chuyển mình, dần tìm lại chỗ đứng. Trong quá trình tìm hướng đi mới ấy, các nghệ sĩ không hoàn toàn chạy theo thị hiếu một cách dễ dãi mà bỏ qua yếu tố nghệ thuật.
Một năm qua, sự xuất hiện của các sàn đấu giá nghệ thuật đã góp phần thúc đẩy hội họa phát triển, tạo ra thị trường lành mạnh thu hút nhà đầu tư cũng như giới mộ điệu. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ.
Văn hóa là sản phẩm, đồng thời là điều kiện, động lực, phương thức tồn tại và phát triển của một đất nước. Văn hóa có sự phát triển tự thân nhưng cũng có cả sự tiếp nhận bên ngoài. Theo các chuyên gia, trong khi bảng giá trị của người Việt xuất hiện một số hiện tượng lệch lạc, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống chuẩn mực xã hội, từ đó xác định khuôn khổ để trở lại chân giá trị.
Khi các hoạt động diễn xướng dân gian dần tách khỏi, đình làng dường như đánh mất một phần linh hồn, còn nghệ thuật truyền thống cũng thiếu khí vị. Theo NSƯT Đoàn Thanh Bình, những buổi diễn của Giáo phường Đình làng Việt một năm qua chính là hành trình để mỗi người được về lại ngày xưa, đắm mình trong đời sống văn hóa cộng đồng.
Thêm một lần mổ xẻ về thực trạng của lý luận phê bình sân khấu hiện nay, các nhà chuyên môn, tác giả đều cho rằng lý luận phê bình của sân khấu nước nhà rất thiếu, yếu và luôn bị các nhà hát… phớt lờ.
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát đã chia sẻ đầy trăn trở tại Hội thảo "Liên hoan phim Việt Nam trong sự nghiệp phát triển điện ảnh dân tộc" vừa qua ở Đà Nẵng.
Sáng 16/11, Hội Di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu trên địa bàn Hà Nội - nhận diện, bảo tồn và phát triển” tại đình Hào Nam. Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa - xã hội, các nghệ nhân dân, đồng đền, thủ nhang, thanh đồng…
Gần đây, một số trường ngoài công lập tăng học phí cao gây phản ứng của phụ huynh và bất bình dư luận. Đáng chú ý là theo Luật Giáo dục 2005, các cơ quan quản lý nhà nước không có thẩm quyền quản lý việc thu chi của các trường ngoài công lập. Các trường này hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và ngành giáo dục chỉ giám sát về chỉ tiêu tuyển sinh, chương trình đào tạo.
Là di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng Quốc gia từ năm 1991, nhưng những giá trị lịch sử, yếu tố nguyên gốc tại chùa Khúc Thủy, thôn Khúc Thủy (xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội) đã bị xâm phạm nghiêm trọng.
Không phải ai sinh ra cũng đã có thẩm mỹ âm nhạc mà nó được hình thành gắn với không gian sống, điều kiện thụ hưởng. Theo nhạc sĩ Quốc Trung, hiện nay ở Việt Nam hầu hết các chương trình nghệ thuật chỉ trình diễn một vài thể loại nhạc, bó hẹp sự lựa chọn của khán giả. Nếu mọi người tự mở rộng, bỏ qua rào cản để thử nghiệm nhiều thể loại nhạc khác nhau, sẽ phát hiện ra nhiều thứ mới mẻ, thú vị.
Cuộc sống của họ ra sao, quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, nỗi buồn, suy nghĩ về truyền thống, hiện tại và tương lai như thế nào? Để tìm ra câu trả lời, đạo diễn người Hà Lan Manouchehr Abrontan đã đi từ Nam ra Bắc, phỏng vấn hàng trăm phụ nữ ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, vai trò khác nhau. Và “Việt Nam tim tôi” ra đời như tình ca về vẻ đẹp, sức mạnh của phụ nữ Việt.
“Học sinh như bó đuốc, nhiệm vụ của tôi là truyền lửa cho bó đuốc. Nhưng trước khi truyền lửa được thì giáo viên phải là người yêu thích, say mê tìm tòi, chắt lọc cái hay trong môn học, khơi gợi cho các em tự tìm tòi, tự phát hiện ra vấn đề”. Đó là chia sẻ của thầy giáo Lê Quang Nhân, Trường THPT chuyên Nguyễn Du, Đắk Lắk tại Lễ tuyên dương gương Người tốt việc tốt đổi mới sáng tạo trong dạy và học năm học 2016 - 2017 do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT) tổ chức sáng 18.10.
Trong bối cảnh cần khẳng định văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, việc tìm ý tưởng sáng tạo từ “Truyện Kiều” được cho là con đường ngắn nhất. Như GS. Phong Lê, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam nhận định: “Doanh nhân dùng chữ tâm ấy để tiến là phúc cho họ, cũng là phúc cho xã hội vậy”.
Trước các phương tiện nghe nhìn, sách đang trở nên yếu thế hơn. Người lớn cũng ngại đọc sách, còn trẻ em thì thích xem iPad và chơi game. Làm sao để tạo được thói quen đọc sách cho trẻ, qua đó, dần nuôi dưỡng tâm hồn các em bằng sách?