Cánh cửa sổ mở

10:18 13/01/2020

SAKI   

1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.

Ảnh: internet

Mẹ mất sớm, ông được gởi sang Anh sống với hai bà cô. Học xong trung học, ông trở về Miến Điện làm việc trong ngành quân cảnh. Do bệnh tật, chỉ hơn một năm sau, ông lại trở về Anh và bắt đầu sự nghiệp làm báo, viết văn. Khi Thế Chiến thứ I bùng nổ, tuy đã quá tuổi động viên ông vẫn tình nguyện nhập ngũ để cuối cùng hy sinh tại chiến trường Pháp bởi một viên đạn bắn tỉa của lính Đức.

2. Tuy viết nhiều thể loại, Saki được biết đến như là một tác giả truyện ngắn. Thế giới truyện ngắn của Saki là con người và đất nước Anh vào đầu thế kỷ XX. Truyện
Cánh cửa sổ mở dưới đây (dịch từ nguyên tác The open window) được xem là một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất của Saki. Một kiểu “truyện trong truyện”, truyện về người khách lạ Framton đến một vùng quê yên tĩnh tìm cách chữa bệnh, trong đó lồng vào truyện kể ly kỳ của cô thiếu nữ Vera, kết hợp tài tình sự hài hước và kinh dị. Cô bé đầy tự tin đó lần lượt gây sửng sốt, bất ngờ cho ông khách rồi đến vợ chồng và hai người em của bà cô, và tất nhiên là cả người đọc. Nguyên nhân nào khiến cô bé bịa chuyện và diễn kịch như thế? Phải chăng vì cuộc sống buồn tẻ, chẳng có việc gì làm trong làng quê này? Hay là tính cô lâu nay vẫn thường hay giở trò như thế? Hay là chính cô cũng có bệnh lý về tâm thần như ông khách tuy bề ngoài vẫn tỏ ra hoàn toàn bình thường? Việc giải thích bỏ ngỏ, dành cho người đọc.

                                                                                 Việt Phương dịch và giới thiệu 



Cánh cửa sổ mở
 

"Cô tôi sẽ xuống ngay thôi, thưa ông Nuttel”, cô thiếu nữ tuổi mười lăm nói với giọng rất tự tin; “trong khi chờ đợi, xin ông vui lòng cho tôi tiếp chuyện”.

Framton Nuttel cố gắng nói điều gì đấy cho phải lẽ để làm vui lòng cô cháu mà không tỏ ra thiếu tôn trọng người cô sắp xuất hiện. Trong thâm tâm, hơn lúc nào hết, chàng thấy lo ngại không biết những cuộc viếng thăm xã giao những người hoàn toàn xa lạ thế này có giúp được gì cho việc điều trị căn bệnh tâm thần mà chàng đang thực hiện đây không.

“Chị biết mọi chuyện sẽ xảy ra thế nào,” chị của chàng đã nói như thế khi chàng chuẩn bị về tỉnh dưỡng nơi thôn dã vắng vẻ này; “em sẽ thui thủi một mình ở đấy, không tiếp xúc với ai, và trạng thái thần kinh của em sẽ tệ hơn vì buồn phiền. Chị sẽ viết thư giới thiệu em với tất cả những người chị quen biết ở đấy. Chị nhớ là vài người trong số đó thực sự rất dễ thương.”

Framton không hiểu bà Sappleton, người mà chàng sắp đưa một trong số thư giới thiệu, có thuộc nhóm người dễ thương đó không.

Khi thấy giữa hai người đã có sự thông cảm lặng lẽ vừa đủ rồi, cô cháu gái liền hỏi: “Ông có quen biết nhiều người ở quanh đây không?”

“Hầu như không quen biết ai,” Framton lên tiếng. “Chị tôi khoảng bốn năm trước có ở đây, tại nhà ông mục sư, và chị viết thư giới thiệu tôi với vài người nơi này.”

Chàng nói ý cuối cùng với một giọng nuối tiếc dễ nhận thấy.

“Vậy là gần như ông không biết gì về bà cô của tôi phải không ạ?”

Cô gái tự tin tiếp tục hỏi.

“Chỉ biết tên và địa chỉ thôi,” người khách thú nhận. Chàng tự hỏi không biết bà Sappleton có chồng hay góa bụa. Có cái gì đấy không rõ ràng lắm ở trong phòng hình như gợi cho thấy nhà này có sự hiện diện của đàn ông.

“Một thảm kịch đã xảy ra với cô tôi cách đây đúng ba năm,” cô gái nói, “có thể vào thời gian chị của ông còn ở đây.”

“Thảm kịch hả?” Framton hỏi; dẫu sao nơi vùng quê yên tĩnh này thảm kịch có vẻ khó xảy ra.

“Ông có thể ngạc nhiên tại sao chúng tôi lại để mở cái cửa sổ kia vào một buổi chiều tháng mười như thế này,” cô gái vừa nói vừa chỉ cánh cửa rộng kiểu Pháp thông ra sân cỏ bên ngoài.

“Thời gian này trong năm trời vẫn ấm,”, Framton nói; “mà cánh cửa kia thì có liên quan gì đến thảm kịch chứ?”
 

Minh họa: Đặng Mậu Tựu

“Ngày này cách đây ba năm, chồng và hai người em trai của cô tôi đã phóng ra qua cái cửa sổ đó để đi săn. Và họ đã không bao giờ trở về. Khi băng qua cánh đồng hoang để đến nơi săn chim dẽ quen thuộc, cả ba người bị nuốt chửng vào một bãi lầy nguy hiểm. Mùa hè ẩm ướt khủng khiếp năm đó, như ông biết đó, có những chỗ mọi năm thì an toàn, nay bỗng sụt lở mà không ai ngờ được. Thi thể của họ không bao giờ được tìm thấy. Đó là điều ghê khiếp nhất của câu chuyện.” Đến đây giọng cô gái mất đi vẻ tự tin mà trở nên ngập ngừng. “Người cô tội nghiệp của tôi vẫn tin là một ngày kia họ sẽ trở về, ba người và cả con chó cùng biến mất với họ, rồi sẽ vào bằng lối cửa sổ như họ vẫn thường làm. Đấy là lý do tại sao cửa sổ cứ để mở như thế mỗi chiều cho đến khi trời tối hẳn. Bà cô khốn khổ của tôi vẫn kể mãi cho tôi nghe chuyện họ ra đi như thế nào, chồng cô thì khoác chiếc áo choàng trắng trên tay, còn cậu em út Ronnie thì cứ hát “Bertie ơi, sao lại nhảy lên thế?” như để chọc ghẹo bà, vì bà nói hát như thế làm bà nhức đầu. Ông biết không, những buổi chiều im ắng, tĩnh lặng như thế này, tôi cảm thấy gần như sởn gai ốc khi tưởng tượng là họ sẽ đi vào qua cái cửa sổ kia.”

Cô gái khẽ rùng mình và đột nhiên ngừng lại. Còn Framton thì nhẹ nhõm hẳn khi bà cô vội vã bước vào phòng và rối rít xin lỗi vì đã chậm ra tiếp khách.

“Tôi hy vọng là cháu Vera đã nói chuyện vui vẻ với ông”, bà nói.

“Cô bé thật thú vị”, chàng đáp.

“Mong là ông không bận tâm vì cánh cửa sổ để mở,” bà Sappleton nói nhanh; “nhà tôi và mấy cậu em sắp đi săn về và họ vẫn thường vào nhà bằng lối đó. Hôm nay họ đi săn chim dẽ ở đám đầm lầy và thế nào rồi cũng sẽ làm bẩn những tấm thảm của tôi. Đàn ông các ông vẫn thế, phải vậy không?”

Bà vui vẻ tiếp tục huyên thuyên về chuyện đi săn, về chuyện hiếm hoi chim chóc bây giờ và hy vọng sẽ có vịt trời vào mùa đông. Với Framton câu chuyện thực sự khủng khiếp. Chàng cố gắng lái câu chuyện sang một đề tài khác bớt ghê rợn hơn nhưng xem chừng không thành công mấy. Chàng cảm thấy chủ nhà chẳng quan tâm lắm đến mình, mắt thì cứ đăm đăm nhìn về hướng cửa sổ và sân cỏ bên ngoài. Hẳn là một sự trùng hợp ngẫu nhiên không may vì chàng đã viếng thăm vào đúng ngày kỷ niệm tấn thảm kịch.

“Các bác sĩ đều khuyên tôi tuyệt đối nghỉ ngơi, không để kích động tinh thần và tránh mọi vận động cơ thể mạnh,” Framton cho biết. Vì, như nhiều người, chàng tưởng lầm rằng những người hoàn toàn xa lạ và những người mới tình cờ gặp gỡ thường khao khát được biết những chi tiết nhỏ nhặt về ốm đau, bệnh tật của người khác, cùng nguyên nhân và cách điều trị. “Riêng về chế độ ăn uống thì các bác sĩ chưa đồng ý với nhau lắm”, chàng nói tiếp.

“Vậy sao?”, bà Sappleton nói, bằng một giọng chỉ như để thay thế cho cái ngáp sắp tới. Rồi bỗng nhiên mặt bà sáng lên, tỉnh táo chú ý - nhưng không phải tới câu Framton đang nói.

“Có thế chứ, họ về kia rồi!”, bà kêu lên. “Vừa đúng vào giờ uống trà, và người nào cũng lấm bùn bê bết thế kia!”

Framton khẽ rùng mình, quay sang nhìn cô cháu ngụ ý tỏ sự thông cảm. Nhưng cô gái đang chăm chú nhìn qua cánh cửa sổ để mở với đôi mắt ngạc nhiên hoảng sợ. Trong cơn ớn lạnh vì một nỗi sợ khó gọi tên, Framton cứ xoay tròn trên ghế ngồi, đưa mắt nhìn theo cùng hướng đó.

Trong ánh chiều tà nhá nhem, ba bóng người đang vượt qua sân cỏ; cả ba đều quàng súng, một trong ba người khoác chiếc áo choàng trắng qua vai. Một con chó săn nhỏ màu nâu mệt nhọc chạy theo sau gót họ. Họ lặng lẽ đến gần ngôi nhà, và một giọng hát trẻ trung khàn khàn cất lên trong bóng tối: “Bertie ơi, sao lại nhảy lên thế?”

Framton quờ quạng vớ lấy chiếc gậy và cái mũ. Cửa ra vào, lối đi rải sỏi và chiếc cổng chính là những gì chàng mơ hồ nhận biết trên đường hấp tấp tháo chạy. Một người đi xe đạp phải phóng vào hàng rào để tránh va chạm đột ngột.

“Bọn anh về đây rồi, em ơi,” người đàn ông khoác áo choàng nhảy vào cửa sổ lên tiếng; “bùn lầy lấm lem, nhưng cũng gần khô rồi. Người nào vừa phóng ra khi bọn anh vào vậy?”

“Một anh chàng khá kỳ khôi, tên Nuttel gì đó,” bà Sappleton trả lời, “anh ta chỉ nói về bệnh tật của mình rồi vụt bỏ chạy mà chẳng thèm nói lời từ giã hay xin lỗi gì hết khi anh về. Làm như anh ta đã nhìn thấy ma hiện hình vậy.”

“Cháu đoán có thể vì con chó,” cô cháu nói tỉnh bơ; “ông ấy nói với cháu rằng ông khiếp sợ chó. Có một lần, trong một nghĩa địa ở bên bờ sông Hằng, ông ta bị một bầy chó hoang lùng sục, cuối cùng phải ngủ cả đêm hôm đó trong một cái huyệt mới đào, trong khi bên trên cả bầy chó gầm gừ, nhe răng, sùi bọt mép. Chuyện như thế ai mà không hoảng loạn.”

Bịa chuyện mau lẹ như thế là biệt tài của cô gái.  

(TCSH370/12-2019)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Trong 24 bài trong tập Cỏ dại của nhà văn Lỗ Tấn do GS. Trần Đình Sử dịch, Sông Hương số tháng 10 năm 2011 đã giới thiệu đến bạn đọc 3 bài “Sau khi chết”, “Sự giã từ của cái bóng” và “Sự run rẩy trên đường đồi bại”. Kỳ này Sông Hương xin giới thiệu tiếp với bạn đọc 4 bài chọn lọc từ Cỏ dại.

  • VILIAM KHÂYNÊXEN (Đan Mạch)

    Khi Lêô tỉnh giấc, trong tai anh vẫn còn vang lên những lời của ông giáo sĩ giảng đạo.

  • LGT: Nhà văn, nhà nghiên cứu sử học và văn hóa Mỹ Jon Holmes sinh ra tại tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng công nghệ Texas nơi ông từng tham gia phong trào nhân quyền và phản chiến, Jon Holmes chuyển đến New York làm việc cho một tạp chí nhiếp ảnh và phụ trách một chương trình sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ hiện đại cho một đại công ty ở Bos- ton.

  • KNUT HAMSUN (*)

    Do tôi viết. Viết vào ngày hôm nay cho trái tim vơi nhẹ đi. Tôi đã mất chỗ làm ở tiệm cà phê cùng những ngày sung sướng của tôi. Tất thảy mọi thứ, tôi đã mất hết. Và tiệm cà phê ấy là tiệm cà phê Mắcximilăng.

  • HENRY JAMES 
         (Tiếp theo Sông Hương số 290 tháng 4/2013)

    Một buổi sáng (tôi cho là ở gần La Spezia) Harold đang vẽ bên gốc cây, không xa quán trọ, tôi ngồi cạnh, lớn tiếng đọc Shelley(18) - người có thể chứng tỏ được trìu mến hơn bất cứ ai.

  • ELENA PUCILLO TRUONG

    Nỗi khắc khoải đã kéo dài từ bao lâu?
    Có lẽ một năm. Quá nhiều. Lấy cớ đi vào toilette, hai tay tôi nắm chặt chiếc bồn rửa mặt trong nhà hàng như muốn bẻ làm đôi. Bao nhiêu bức bối đang dồn vào trong... bao nhiêu đau đớn... đau đến nỗi tôi không dám ngẩng mặt nhìn bóng mình trong gương.

  • Henry James (1843 - 1916), nhà văn Mỹ viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học và nghệ thuật Pháp. Ông định cư ở Londres, Anh từ 1876. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009), nội dung thể hiện ở nhiều chủ đề như: ý thức, tâm lý, mơ mộng, tình cảm, vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.

  • FRANÇOIS CHENG
    (Trích từ tác phẩm Khi những linh hồn lang thang trở về)

    Dưới gầm trời này, dưới cái gầm trời rất thấp này, tất cả đều có thăng có trầm, tất cả đều bị biến đổi. Tác phẩm về Những đột biến đã chỉ rõ điều đó, tổ tiên chúng ta đã nói: “Cứ năm năm thì có chuyển biến nhỏ, cứ năm trăm năm thì có đại đột biến”.

  • L.T.S: Sherwood Anderson (1876 - 1941) là nhà văn lớn của Mỹ. Ông có nhiều tư tưởng tiến bộ, và thường tỏ thiện cảm với những lực lượng vô sản cách mạng Mỹ, đặc biệt là trong những năm 1931 - 1935. Truyện ngắn "Những ngọn đèn chưa thắp" (Unlighted Lamps) của ông dưới đây được liệt vào một trong những chuyện ngắn xuất sắc trong nền văn học Mỹ từ trước đến nay. Câu chuyện về bi kịch nội tâm của những con người không phá vỡ nổi bức tường ngăn cách giữa những tình thân và cho đến khi nhắm mắt vẫn chưa kịp thắp lên ngọn lửa thông cảm.

  • Elena Pucillo Truong là người Ý, Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài (Đại học Milano Italia). Cô dạy tiếng Pháp và Văn minh Pháp tại Milano từ năm 1982 và gần đây có dạy tiếng Ý tại Nhạc Viện, tại phòng lãnh sự danh dự Ý và tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP HCM.

  • LGT: Etgar Keret sinh ngày 20/8/1967 tại Ramat Gan, Israel. Nhà văn nổi tiếng với truyện ngắn và kịch bản phim, có ảnh hưởng lớn tới lớp nhà văn trẻ hiện nay ở Israel.

  • L.T.S: Narayan là nhà văn miền Nam Ấn Độ, sáng tác bằng tiếng Anh. Sinh 10/10 năm 1906 tại làng Madras (mất 13/5/2001), từng sống ở thành phố Mysore cổ kính của quê hương ông.

  • Ferit Edgu sinh năm 1936, từng sống sáu năm ở Paris học chuyên ngành gốm. Trong nhiều năm ông là người viết kịch bản quảng cáo và rồi điều hành một nhà xuất bản. Sự vô lý của cuộc đời, những ám ảnh dục tính, sự sa đọa và sự bất hòa của người trí thức là những chủ đề của ông.

  • HEINRICH BÖLL (CHLB Đức)

    (Heinrich Böll sinh 1917, mất 7-85 - giải thưởng Nôbel văn học 1972)

  • Ngoài các tác phẩm lớn về Việt Nam như Vạn Xuân, Lãn Ông, mấy năm gần đây, nữ văn sĩ Pháp Yveline Feray đã cho ra đời những tập truyện thần thoại và dân gian của các nước châu Á như Việt Nam, Trung Hoa, Campuchia, Tây Tạng. Vào cuối năm 2010, bà đã cho xuất bản tập “Chuyện kể của bà ngoại Ấn Độ”.

  • AKUTAHAVA RIUNÔXKÊ (Nhật Bản)

    Hôm ấy một mình Đức Phật đi dạo ven bờ đầm trên Niết bàn.
    Cả đầm toàn là sen trắng trong như ngọc, và nhị sen vàng tỏa ra xung quanh một mùi thơm ngọt, ngạt ngào.

  • L.T.S: LANGSTON HUGHES (1902 - 1967), nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch và dịch giả người Mỹ da đen, sinh ở Joplin, bang Missouri. Ông đã xuất bản 35 tác phẩm. Thơ của ông đã được dịch sang tiếng Việt. Những tác phẩm của ông phần lớn tập trung chủ đề đấu tranh cho quyền bình đẳng giữa người da đen và da trắng tại nước Mỹ. Truyện sau đây dịch trong tập truyện "The ways of white Folks".

  • Hình ảnh rồng Việt Nam từ xa xưa đã sớm đi vào nghệ thuật với nhiều loại hình khác nhau. Trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc, nhiều công trình điêu khắc lấy con rồng làm đề tài đã trở thành những tác phẩm có giá trị văn hóa, trong đó không ít công trình điêu khắc đá được xem như là những tác phẩm mang dấu ấn phong cách nghệ thuật của một thời kỳ.

  • Nhà văn Phillip Van Doren Stern sinh ra tại Wyalusing, bang Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. The Greatest Gift là truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông. Phillip Van Doren Stern đã từng gửi câu truyện này đi nhiều báo và tạp chí nhưng không nơi nào nhận đăng. Cuối cùng ông cho in truyện lên 200 tấm thiệp năm mới và phát cho bạn bè.

  • LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.