Cảm thức văn hoá Huế trong truyện ngắn Trần Thùy Mai

11:07 17/10/2011
HOÀNG THỊ HUẾ Xứ Huế là một vùng đất có nền văn hóa đặc sắc - vừa mang nét riêng vừa dung hợp với văn hóa Việt Nam và khu vực, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa dân gian, văn hóa đô thị cổ truyền và văn hóa cung đình - mà không vùng đất nào có được.

Tiến sĩ Hoàng Thị Huế - Ảnh: dhsphue.edu.vn

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Nói đến văn học Huế không thể không nhắc đến nhà văn Trần Thùy Mai - một gương mặt nữ khá quen thuộc với bạn đọc trong và ngoài nước từ lâu nay. Sống gắn bó với đất và người xứ Huế từ nhỏ, con người và cảnh vật của xứ sở cổ kính này đã thấm đẫm những trang văn Trần Thùy Mai. Người đọc có thể cảm nhận những âm vang của đất trời và lòng người qua một chút bảng lảng khói sương, hay những thanh âm trầm mặc, u buồn của tiếng chuông chùa Thiên Mụ, Từ Đàm, một chút mộng mơ trong đôi mắt buồn thương nhớ bâng quơ của người con gái Huế.

Nhắc đến con người xứ Huế, người ta thường nói nhiều đến sự dịu dàng kín đáo, vẻ đoan trang nền nã của nét người chốn đất thần kinh - nơi từng là kinh đô của mười ba triều vua nhà Nguyễn. Quan niệm sống, ứng xử, cách sinh hoạt... đều mang vẻ trang nghiêm, đài các của một thời quá khứ, được nâng niu, gìn giữ và gần như trở thành một nét tính cách đặc trưng của con người xứ Huế. Đó là cuộc sống của những con người như Trang (Khói trên sông Hương), cô tiểu thư khuê các Thể Cúc (Thể Cúc), Minh và Lan (Thương nhớ Hoàng Lan), là Bội Hoàn, là Phượng (Huyền thoại về loài chim phượng), hay chị Trúc (Chị Hai ơi), chị Vân, Vy, Mi, Kiều Dung... những con người, những khuôn mặt của đời thường thân quen, bình dị. Không gian nghệ thuật - môi trường tồn tại của những nhân vật này cũng là những không gian đặc trưng của miền đất Huế “Khu vườn rộng, nằm khuất nẻo trong một góc đình làng Lại Thế. Mít và đào trải rộng những tán lá xanh. Trước nhà là những chiếc bình phong chè tàu. Cây song thọ đào đầu mùa xuân nở những hoa lấm tấm hồng...”. Những ngôi nhà vườn Huế với hàng chè tàu bao quanh, cao vừa đủ để vẫn cảm nhận được sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, nhưng cũng đủ để ngăn cách hai không gian trong vườn và bên ngoài - hàng rào nhưng đồng thời cũng tồn tại như một giới hạn của con người Huế - kiểu con người với đời sống nội tâm phong phú, nặng về tâm linh, cuộn mình trong trách nhiệm và phận vị. Người Huế thường sống nội tâm, thiên về cảm tính, ít hướng ngoại. “Người Huế cảm nhận sự vật bằng trực giác hơn là lý tính, tâm hồn Huế thì Thiền hơn Nho” [5;tr12]. Nét riêng đó trong tính cách người Huế đã được Trần Thùy Mai thể hiện khá rõ trong tác phẩm của mình. “Trong mối quan hệ với người khác, người Huế lấy cái tâm làm gốc. Cái tâm bao gồm tình thương, sự nhường nhịn, lòng bao dung để bỏ qua thù hận, sự điềm tĩnh để không cuồng tín...” [5;tr13]. Đời sống tâm linh với người Huế như một cõi riêng, một điểm tựa về tinh thần, để họ thoát tục, lãng quên phiền muộn trong đời thực, phiêu bồng vào cõi mơ ước... Vì vậy, ảnh hưởng của tôn giáo thường mang màu sắc huyền ảo, tác động lớn đến đời sống tinh thần của con người, tạo cho con người sức mạnh để vượt lên nỗi đau (Trăng nơi đáy giếng). “Văn hóa nằm trong các tâm trí, sống động trong các tâm trí, mà các tâm trí thì đều nằm trong văn hóa, sinh tồn trong văn hóa” [1;tr37]. Bà Hạnh và ông Phương, một tín đồ và một thánh sống, khi hình ảnh thánh sống trong đời thực vỡ tan, mất niềm tin, mất tình yêu và lý do sống, bà Hạnh tìm chốn trú ngụ cho tâm hồn ở một nơi khác - trong cõi tâm linh - một cách thế bày tỏ khát vọng hạnh phúc gia đình, khát vọng sống thẳm sâu, mãnh liệt, không gì ngăn trở nổi.

Người Huế nặng suy tư, trăn trở nên cõi đời và cõi đạo, cõi chung, riêng nhiều lúc là những kết hợp lạ lùng của thực và ảo, của khoảnh khắc và vô tận, của thực tế trần trụi đầy cám dỗ và khát khao mơ ước... Những trăn trở, dằn vặt, giằng xé trong nội tâm của Minh (Thương nhớ Hoàng lan) phản ánh sâu sắc bi kịch thể xác và tâm hồn, trách nhiệm phận vị, lý tưởng và tình yêu... của con người nơi đây. Huế vốn là mảnh đất lắm chùa chiền, những ngôi chùa nhỏ nhắn, xinh xắn, ẩn sâu giữa vườn cây như một nơi cư ngụ của tâm hồn. Hầu hết các làng ở Huế đều có chùa, với hơn 400 ngôi chùa, niệm phật đường, chiếm 1/3 số lượng chùa chiền trên cả nước, ảnh hưởng của văn hóa chùa đã tác động không nhỏ đến đời sống tâm linh của người dân nơi đây. Người Huế đi chùa, đến với tôn giáo không cầu danh lợi mà cầu sự bình an, thanh thản cho tâm hồn. Đạo không nằm ở những gì cao sang, xa vời mà ngay giữa đời thường trần tục, trong nếp sống, nếp nghĩ, trong ứng xử hàng ngày, đem đến cho con người sự cân bằng trong đời sống. “Đời không đục không trong, mà trong hay đục đều ở cái tâm của mình, phải giữ cho tâm của mình trong sáng đó mới là chân tu”, để đến cõi niết bàn mà phải đạp lên dẫu một chiếc lá thì cũng đã không nên (Thương nhớ Hoàng lan). Niềm vui và bất hạnh của Niết (Lửa của khoảnh khắc) cũng được nhận thức như một lẽ cân bằng của tạo hóa, hạnh phúc trong khoảnh khắc đã đốt bỏng rát nỗi đau cả một đời, nỗi đau tưởng là gánh nặng, sự trừng phạt lại hóa ra là lẽ sống, lý do sống mà chỉ đến khi mất đi con người mới ngộ ra.

Kiểu con người Huế với đời sống nội tâm, nặng tâm linh là một tính cách riêng, nhưng đồng thời xứ sở này cũng là môi trường sinh ra những con người có những tính cách nổi loạn - được hiểu như một nét phá cách, lệch chuẩn, so với trật tự chuẩn mực chung của xã hội. Kiểu con người nổi loạn, bứt phá, quẫy đạp vượt thoát mọi ràng buộc từng là cô Thị Mầu trong vở chèo Quan Âm Thị Kính, cô Xúy Vân giả dại qua ải... Trong tác phẩm của Trần Thùy Mai có những nhân vật nữ dịu dàng, hiền thục, đoan trang nhưng hàm ẩn tính cách quyết liệt, dám sống, dám yêu, dám giành giật, đấu tranh với số phận để đạt được khát vọng của mình, nhưng dám bứt phá để tạo nên một chuẩn mới thì không có nhiều, chính sự lưng chừng đó cũng là một nét riêng của tính cách Huế. Nguyệt - người vợ, người mẹ tảo tần, nhẫn nại, giàu đức hy sinh với dáng đi khập khiễng, một chiều nao đã vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại. Dẫu nơi nàng đến là một xứ hắt hiu, người nàng yêu là một thi sĩ chân đất nhưng nàng đã thoát được “sức nặng của một vùng đồi hoang vắng đang chờ bão tới” (Quỷ trong trăng). Câu chuyện kết thúc bỏ ngỏ trong dư âm của nỗi buồn, bởi người đọc mãi mãi không biết Nguyệt đi đâu, sẽ sống như thế nào, hạnh phúc hay khổ đau, cuộc đời Nguyệt không có đoạn kết, chỉ biết rằng “nơi hoang vu thường có quỷ”. Đó là kết thúc mà Trần Thùy Mai muốn khắc dấu trong người đọc về một xứ sở, về những con người tĩnh nhưng không lặng ở Huế “Tôi viết Quỷ trong trăng với ý niệm muốn phác họa một chân dung Huế tiêu điều buồn lạnh ngày xưa. Trong đó có những kiếp người bình lặng đang tìm cách bứt phá”... “Sao lúc nào em cũng như đang đợi. Thế nhưng em cũng không biết mình đợi điều gì...?

Người phụ nữ Huế từ nhỏ đã chịu ảnh hưởng của lễ giáo phong kiến, phải công, dung, ngôn, hạnh, tam tòng tứ đức, phải nhẫn nại hy sinh, chịu thương chịu khó, nhường nhịn và chịu đựng để mọi cái đều được quy củ và tốt đẹp. Edgar Morin gọi đó là hiện tượng đóng dấu ấn (imprinting) về văn hóa và chuẩn mực hóa (nor-malisation) với vai trò áp đặt của văn hóa [1;tr50]. “Những con người thuộc nền văn hóa nào đó, do cách nhận thức của họ đều sản sinh nền văn hóa và văn hóa này lại sản sinh ra cách nhận thức của con người” [1;tr42]. Ngay từ khi ra đời, dấu ấn văn hóa đã ăn sâu vào bộ não ấu thơ của con người do quá trình ổn định hóa các tiếp xúc có chọn lọc. Do sống trong môi trường văn hóa cung đình, người Huế xưa phải chịu những áp lực của các chuẩn mực văn hóa từ các triều đại nhà Nguyễn trong tương quan chung với văn hóa Việt Nam, văn hóa phương Đông. Đó là sự ấn định những ranh giới không thể vượt qua, những quan niệm không được truyền bá, không được chấp nhận, nếu làm ngược lại thì sẽ bị khinh ghét. Chị Vân không được yêu Luân bởi chị hơn Luân mười tuổi, chị Trúc bị đuổi khỏi nhà vì yêu một người chỉ đáng tuổi em mình. Thập tự hoa, Lễ cưới bạc, cũng vậy, đó là những tình yêu lệch chuẩn, những chuẩn do thể chế văn hóa, do con người tạo ra để phục vụ cho tính ổn định xã hội. Nhưng bên trong những chuẩn mực hóa ấy luôn tồn tại những lệch chuẩn do sự khác biệt giữa các cá nhân trong thái độ đối với chuẩn mực, quy tắc, lề luật văn hóa. Họ có thể đặt mình ra ngoài lề, hoặc nổi loạn. Chính vì vậy, Quỳnh Thơ - một công chúa chốn lầu son gác tía đã làm mẹ nàng là Hoàng Quý Phi phải lo lắng, bởi ở nàng luôn tiềm ẩn những dấu hiệu của sự bứt phá khỏi những quy tắc lề luật “Trí thông minh và sự tò mò chẳng bao giờ là ưu điểm cả, nó chỉ là điềm báo những tai họa” (Lửa hoàng cung). Khát vọng được sống tự do vượt thoát khỏi bốn bức tường cung cấm, đặc biệt ý muốn nhìn mặt một người đàn ông để thỏa trí tò mò của nàng đã khiến nàng trở thành hiện tượng dị biệt, như người bị ma ám, bị đày xuống lãnh cung. Nét phá cách, muốn bứt tung mọi ràng buộc trong tính cách của người phụ nữ Huế ngày xưa chỉ có thể được hóa giải bằng sự trả giá của chính cuộc đời họ. Quỳnh Thơ ra đi về nơi mặt trời ẩn náu trên yên ngựa của người tráng sĩ. Khánh (Ngôi đền sống), Lilly (Giấc mơ núi ngựa trắng) chết như những người tuẫn tiết vì đạo, đạo của những con người này là tình yêu. Luân, Cường cả đời sống như kẻ vô hồn bị trói buộc, ám ảnh bởi quá khứ, cuộc đời trở nên vô nghĩa bởi đánh mất tình yêu, đánh mất ý nghĩa sống. Akiko từ bỏ những giấc mơ tím hồng ngũ sắc và tình yêu say đắm với Vũ để tìm một hình bóng Vũ khác đẹp như tranh vẽ dẫu biết chỉ đi tìm ảo ảnh. “Ước mơ vượt khỏi kích thước hữu hạn của đời người dù chỉ trong khoảnh khắc” (Thuốc ba màu) và khát khao cháy bỏng được sống lại cùng Akikô những gam màu huyền thoại khiến Vũ uống thuốc ba màu một cách vô thức. Con người rơi vào bi kịch giữa ước mơ và thực tại hiện hữu, chỉ có thể lưu giữ cõi mơ trong ký ức - thế giới không bến bờ của những khát vọng, bởi nếu chạm vào nó sẽ tan biến thành hư vô. Trang (Khói trên sông Hương), Mi (Thiên đường mong manh)... đều là những con người khao khát tình yêu và hạnh phúc, trong tâm hồn những người phụ nữ này có nét mộng mơ lãng mạn từ những câu ca, điệu nhạc trên sông, tiếng đàn đêm thơ của Nguyệt (Quỷ trong trăng), có điệu Valse du dương quyến rũ và có cả sức nóng của những điệu nhảy hiện đại và ánh đèn vũ trường đêm đêm (Thiên đường mong manh). Đó cũng là sức nóng khiến sông Hương bốc khói giữa những ngày lạnh giá - một dòng sông đẹp đẽ hiền hòa, dịu dàng chảy qua thành Huế nhưng phải nhìn thấy dòng Hương mùa lũ mới thấy hết sự dữ dội, sức mạnh dâng tràn, bứt phá của nó. Mặc cho lời khuyên của cha có chân thành sáng suốt đến mức nào, dẫu đã nếm vị ngọt ngào lẫn đắng cay khủng khiếp của tình yêu, Mi (Thiên đường mong manh) cũng chỉ sống và nghe theo tiếng gọi của trái tim. Để biết thế nào là yêu thương và chịu đựng, Mi đã phải tự mình băng qua thảm cỏ xanh mượt mát rượi lẫn sa mạc bỏng rát của tình yêu với Hiếu, phải chịu đựng những vết thương lòng không bao giờ hàn gắn được. Quyên trong Cánh cửa thứ chín cũng vậy, khát khao “được cháy rực suốt quãng đời còn lại”, tình yêu đã đưa cô thoát khỏi bốn bức tường lạnh lẽo
của thế giới thực tại, viễn du vào một vùng trời mơ ước với niềm say mê khám phá, tìm kiếm những giá trị mới mà “anh, anh cũng là một thế giới”... “muốn cùng anh lang thang trên bãi hoa dầu trắng phau... sẽ chịu bỏng, chịu cháy để được đau đớn, được yêu thương, muốn chịu đựng mọi thứ trên đời, ngoại trừ sự tẻ lạnh để thấy anh ở bên tôi. Chúng tôi đang bay lên và đang lơ lửng trước vực thẳm... cánh cửa thứ chín. Cánh cửa biết mở ra là tai họa mà mọi người cuối cùng đều đã mở” (Cánh cửa thứ chín). Dẫu chỉ là những khoảnh khắc nổi loạn, dẫu cam tâm làm một người tù, dừng lại vĩnh viễn trước cánh cửa thứ chín, lấp vùi đi một thế giới vừa được mở ra, nhưng Quyên đã nhìn thấy chân trời, thấy được khát vọng đời mình và nhìn thấu bản thể chính mình. Dấu ấn văn hóa mà Quyên chịu tác động, tính phục tùng văn hóa, phục tùng những trật tự xã hội của mỗi cá nhân khiến cô không thể có sự chọn lựa nào khác. Thậm chí ngay cả khi sức mạnh của sự cấm đoán vượt ra khỏi cánh cửa thứ chín có suy giảm, Hòa, chồng của Quyên không hề hay biết những đổi thay trong tâm hồn vợ, thì Quyên vẫn khước từ những lựa chọn không tương hợp với các tín niệm của cô. Đó là trường hợp mà Edgar Morin gọi là sự thôi miên về văn hóa từ thời thơ ấu [1,tr52]. Sức nặng của thể chế văn hóa vẫn đè nặng lên đời sống tinh thần của người Huế, thỉnh thoảng tạo ra những kiểu ảo giác tập thể, ảo giác khiến người ta nhìn thấy cái mà thực chất không phải là chính nó, là cách làm cho con người mù lòa do che khuất những cái thật sự tồn tại. Nó khiến Quyên cam tâm dừng lại trong hai cánh cổng, khóc cho chính mình và một thế giới vừa vỡ tan, khiến Ng. (Thị trấn hoa quỳ vàng) chấp nhận thực tại không thể níu kéo và ra đi không lời từ giã, “bởi vì chính mặt trời cũng không vĩnh cửu”.

Dẫu viết về những vùng đất khác nhau hay về vùng đất Huế, cảm thức văn hóa Huế vẫn in đậm trong những trang văn của Trần Thùy Mai, như một nét riêng, sức mạnh làm nên tên tuổi của nhà văn. Văn hóa Huế thấm sâu sự lựa chọn từng chi tiết trong tác phẩm của nhà văn, trong ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu đến quan niệm nghệ thuật về con người. Tất cả đều mang đậm nét đặc trưng của văn hóa, con người xứ Huế. Đó là những con người giàu tình nặng nghĩa, tha thiết yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, đất nước, có một đời sống nội tâm phong phú, nặng tâm linh, với một vẻ dịu dàng, kín đáo, trang đài, quý phái của cung đình và sức sống mãnh liệt. Trong những sinh hoạt, lối sống, ứng xử hàng ngày, những giá trị chuẩn mực của một thời vẫn được nâng niu, gìn giữ. Sự am hiểu, gắn bó máu thịt với văn hóa Huế khiến Trần Thùy Mai chuyển hóa nhuần nhuyễn những đặc trưng văn hóa vùng miền, từ nếp sống, nếp nghĩ, thói quen của con người nơi đây đến những không gian, thời gian văn hóa, ngôn ngữ, giọng điệu... riêng biệt độc đáo chỉ có ở chốn kinh thành Huế. Từ đó thấy được nét riêng, giá trị độc đáo của truyện ngắn Trần Thùy Mai trên văn đàn Việt Nam đương đại, đồng thời khẳng định vai trò lưu giữ và sáng tạo văn hóa của văn học nói chung, truyện ngắn Trần Thùy Mai nói riêng.

H.T.H
(272/10-11)


----------------------
1-Edgar Morin (2008) Phương pháp 4. Tư tưởng - Nxb ĐHQG Hà Nội.
2-Phan Ngọc (1999) Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Thanh Niên.
3-Trần Thùy Mai (2004) Đêm tái sinh, Nxb Thuận Hóa Huế.
4-Trần Thùy Mai (2005) Mưa đời sau, Nxb Văn Nghệ.
5-Trần Văn Khê, Văn hóa Huế dưới góc nhìn của người nước ngoài -http://www.thienlybuu-toa.org/Misc/VanHoaHue.htm
6-Hoàng Phủ Ngọc Tường (2001) Huế - Di tích và con người, Nxb Đà Nẵng.
7-Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002) Tính cách Huế, Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nxb Trẻ.
8-Trần Ngọc Thêm (1997) Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp HCM.
9-Http://vnexpress.net;http://vnnavi.com;http://vietbao.vn; http://www.trankiemdoan.net/but-luan/vanhoc-nghethuat/vanhoahue.html




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • KHẾ IÊM

    Viết hy vọng có thể giúp người đọc tự đánh giá thơ, theo đúng tiêu chuẩn của dòng thơ này, và những nhà thơ Tân hình thức Việt, trong việc thực hành, có thể điều chỉnh những sáng tác của mình, đi xa hơn, và làm nổi bật sự khác biệt giữa các thể loại thơ, tự do và vần điệu.

  • PHẠM THỊ HOÀI

    Tôi không nói tới việc viết văn thuần túy vì mục đích kiếm sống, dù đấy là điều rất đáng bàn, và hơn nữa, sự nghèo túng của những người cầm bút ở xứ sở này đã trở thành truyền thống; cũng không nói đến việc viết văn để kiếm chác một vài thứ khác ít đáng bàn hơn, như danh vị hay thứ đặc quyền xã hội nào đó.

  • LỮ PHƯƠNG

    Sau khi Sông Hương 36, 1989 xuất hiện, cũng đã xuất hiện một số bài báo phản ứng, trong đó có hai bài nhắc đến bài viết của tôi (1) - bài ký tên Trần Phú Lộc: “Ðôi lời nhân đọc Sông Hương số 36”, Văn nghệ số 21, 27-5-1989 và bài ký tên Văn Nguyên: “Báo động thật hay giả”, Nhân dân 20.5.1989.

  • MAI ANH TUẤN

    Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU

    14 tháng bảy 1789, nhân dân Pari chiếm và phá ngục Bastille, biểu trưng của chế độ phong kiến đã tồn tại ở Pháp hàng chục thế kỷ. Nó là một "đại hồng thủy" cuốn sạch một thế giới cũ và mở đầu một thế giới mới ở Pháp, ở Châu Âu và vang dội trên toàn thế giới.

  • TRẦN HOÀI ANH

    1.
    Nói đến triết học phương Tây, không thể không nói đến chủ nghĩa hiện sinh, một trào lưu tư tưởng chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý của triết học phương Tây hiện đại.

  • JOSEPH EPSTEIN

    Có một số thứ ở đó sự tầm thường là không thể được dung thứ: thơ, nhạc, họa, hùng biện.
                                    (La Bruyère).

  • LÊ THÀNH NGHỊ

    Văn học nghệ thuật có sứ mệnh phản ảnh sự thật cuộc sống qua đó rút ra bài học ý nghĩa đối với con người. Nguyên lý này không có gì mới mẻ. Lịch sử văn học nghệ thuật cũng chứng minh rằng, gắn bó với hiện thực, phản ảnh chân thực hiện thực là thước đo giá trị của tác phẩm. Điều này cũng không còn xa lạ với mọi người.

  • NGUYỄN THỊ TUYẾT

    A work of art was a form expressive of human feeling,
    Created for our aesthetic perception through sense or imagination.

    - S. Langer(1)
    I paint objects as I think them, not as I see them.
    - Pablo Picasso(2)

  • NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG

    Cách đây một thời gian có hai phóng viên báo Sông Hương đến gặp tôi, đó là hai người Huế. Vì thế tôi có ngay những tình cảm rất đẹp, tình đồng hương. Thứ nữa, tôi thầm nghĩ: Chắc là hai phóng viên này muốn trao đổi với mình về đề tài vô thức đây! Và quả thực như thế.

  • YẾN THANH

    Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo viết ngày 28/8/1945 tại 48 Hàng Ngang và đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một văn bản chính trị quan trọng bậc nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại.

  • NGUYỄN THÁI HOÀNG    

    Đi từ triết học đến văn học, quan niệm về hiện tồn phi lí trở thành cảm thức phổ biến của con người hiện đại trước tình thế tồn tại chông chênh, mù mờ bất khả giải.

  • PHẠM PHÚ PHONG   

    Nhìn lại đội ngũ những người viết phê bình văn học trong cả nước ngày càng thưa vắng, thì ở các địa phương miền Trung càng thưa vắng hơn, đến mức có khi không tìm đâu ra chân dung một nhà phê bình thực thụ, đằng sau các bài điểm sách, đọc sách trên các báo.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNH

    Hiện nay trong giới văn học đang diễn ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi (chỉ được phản ánh phần nào trên báo chí). Những cuộc tranh luận này càng sáp vào việc chuẩn bị cho Đại hội Nhà văn lần thứ 4, càng trở nên gay gắt hơn và người ta càng thấy rõ hơn những gì ẩn đằng sau những ý kiến đối lập.

  • LỮ PHƯƠNG

    Khi theo dõi những cuộc thảo luận về mối tương quan giữa chính trị và văn nghệ trên báo chí nước ta sau thời kỳ "cửa đã mở", tôi gặp một bài đáng chú ý đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 7, 1988 ký tên Lê Xuân Vũ: Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị không phải là quan hệ giữa hai "bá quyền" trong xã hội.

  • LẠI NGUYÊN ÂN

    Tạp chí Cộng sản, số 11-1988 có đăng bài “Quan hệ văn nghệ và chính trị không phải là quan hệ giữa hai "bá quyền" trong xã hội” của Lê Xuân Vũ.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Trong một dạng thức của lời nói, các đối tượng không có màu sắc.
                                               Wittgenstein[1]

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    1. Từ thập niên 90 của thế kỉ XX, nhà văn Trần Duy Phiên đã sáng tác nhiều tác phẩm mang đậm tư tưởng sinh thái mà tiêu biểu là bộ ba truyện ngắn viết về côn trùng Kiến và người (KVN), Mối và người (MVN), Nhện và người (NVN).