Trong phong trào Thơ mới, có nhiều thi sĩ làm thơ với đề tài mùa xuân và để lại những thi phẩm lừng danh.
Nhắc đến Hàn Mặc Tử là nhớ ngay tới Mùa xuân chín, Sầu xuân, Xuân như ý… Nhắc đến Nguyễn Bính là nhớ tới Mùa xuân xanh, Xuân tha hương, Xuân vẫn tha hương, Gái xuân… Xuân Diệu qua hai tập thơ trước Cách mạng là Thơ thơ và Gửi hương cho gió cũng đã công bố nhiều bài thơ xuân như Nụ cười xuân, Nguyên đán, Vội vàng, Xuân rụng, Xuân đầu, Xuân không mùa, Tình thứ nhất… Và Huy Cận, một trong những đại biểu ưu tú của Thơ mới cũng có những thể hiện rất riêng về mùa xuân. Tập thơ duy nhất ông in trước 1945, Lửa thiêng, có tới 4 bài thơ mang thi đề mùa xuân. Đó là các bài Xuân, Xuân ý, Chiều xuân và Hồn xuân; chưa kể những câu thơ lẻ về mùa xuân rải rác ở các bài còn lại trong tập.
Nhìn nhận lại về đề tài mùa xuân của Thơ mới, có thể thấy có hai cách thể hiện cơ bản được trình bày khá rõ. Đó là mùa xuân gắn với niềm vui - tuổi trẻ - tình yêu và mùa xuân gắn với tuổi trẻ - nỗi buồn - bi quan - bế tắc. Thơ xuân gắn với niềm vui thì rõ nhất là Xuân Diệu với lòng yêu đời, yêu cuộc sống đến ham hố, mãnh liệt như muốn chạy đua cùng thời gian, lúc nào cũng hối hả, cuồng nhiệt. Nói theo cách của Hoài Thanh thì đó là một “nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”. Còn thơ xuân gắn với nỗi buồn cũng trải khắp trong sáng tác của nhiều tác giả: Tôi có chờ đâu có đợi đâu/ Đem chi xuân đến gợi thêm sầu (Chế Lan Viên), Thề xuân dù chẳng vuông tròn/ Khóa buồng xuân lại vẫn còn sầu xuân (Hàn Mặc Tử), Bốn bể vẫn chưa yên sóng gió/ Xuân này em chị vẫn tha hương (Nguyễn Bính).
Còn với Huy Cận, mùa xuân đã đi vào thơ ông như thế nào? Bài thơ mang thi đề mùa xuân thứ nhất có tên tối giản là Xuân, gồm ba khổ thất ngôn mỗi khổ 4 dòng: Luống đất thơm thơm mùa mới dậy /Bên đường chân rộn bước trai tơ /Cây xanh cành đẹp xui tay với/ Sông mát tràn xuân nước đậm bờ/Ô những người ta đi hóng xuân/ Cho tôi đi với, kéo tôi gần/ Rộn ràng nhịp bước hương vương gót/ Nhựa mạnh tuôn trào tưởng dính chân/ Bắt gặp mùa tươi lên rún rẩy/ Trong cành hoa trẻ, cổ chim non/ - Có ai gởi ý trong xuân cũ/ Đất nở muôn xuân vẫn chẳng mòn. Có thể thấy, đây là một bài thơ xuân mang âm hưởng tươi tắn, trẻ trung, đầy lạc quan và sức sống. Tất cả các sự vật cùng con người được miêu tả theo xu thế vận động, đi lên, căng tràn nhựa sống. Đất thì “thơm hương”, mùa thì “mới dậy”, thực vật thì “cây xanh cành đẹp”, sông nước thì “tràn xuân đậm bờ”. Hình ảnh con người xuất hiện trong cả ba khổ thơ và ở khổ nào cũng có sự hòa quyện cùng thiên nhiên đất trời trong không khí mùa xuân. Bắt đầu từ khổ 1, ta gặp sự vận động của tay: “tay với”. Sang khổ 2, có sự vận động của chân cũng như toàn cơ thể: “đi hóng xuân”, “rộn ràng bước nhịp”, “dính chân”. Rồi đến khổ cuối, ta gặp sự vận động và sức sống trong tinh thần, trong nội lực của chủ thể trữ tình: “Có ai gởi ý trong xuân cũ”. Như vậy, cái sức sống và tình người lòng người trong mùa xuân luôn có sự liền mạch, tiếp nối, kế thừa để tạo ra sự bền vững và niềm tin cho tương lai: “Đất nở muôn xuân vẫn chẳng mòn”.
Nếu như Huy Cận lựa chọn hình thức thất ngôn cho bài thơ xuân thứ nhất, thì sang bài thứ hai, ông chuyển sang thể lục bát mượt mà nhuần nhị: Đêm vừa nhẹ, gió vừa mơn/ Cây chen ánh nguyệt trải vờn bóng xanh/ Khuya nay mùa động đầu cành/ Đồng trăng lục nhạt; vàng thanh lối gần/ Trăng êm cho gió thanh tân/ Hương rừng tỉnh dậy ái ân xuống đồng/ Đêm say, không khí say nồng/ Nghìn cây mở ngọn, muôn lòng hé phơi/ Khuya nay trong những mạch đời/ Máu thanh xuân dậy thức người héo hon (Xuân ý). So với bài thơ xuân trước, bài thứ hai không chỉ có sự thay đổi về thể thơ mà thay đổi cả về điểm nhìn, bối cảnh. Thời gian nghệ thuật của bài trước là ban ngày, của bài này là ban đêm với ánh trăng xuất hiện hai lần. Không gian trong bài trước mở ra với sông nước, bài này là những cánh đồng, là cả rừng cây. Sự vật và con người trong bài trước hiện lên với những vận động và miêu tả bề mặt, còn ở bài này lại có cách thể hiện thâm trầm, rạo rực, bề sâu. Có thể nhận thấy nỗi buồn thấp thoáng trong câu kết bài qua cụm từ “người héo hon”, nhưng cái u sầu ấy đã được kéo lên bởi “mạch đời”, bởi “máu thanh xuân dậy thức”. Vì thế, nếu như bài thứ nhất cho ta một khí thơ SÁNG, thì bài thứ hai mang tới một khí thơ ẤM, tiếp tục nuôi dưỡng được niềm hi vọng cho con người.
Có thể thấy, Huy Cận luôn có những dụng công tìm tòi biểu đạt khi viết về cùng một đề tài. Ở bài thơ thứ ba về mùa xuân, ông không dùng thất ngôn hay lục bát nữa mà chuyển qua thể bốn chữ với nhịp thơ nhanh mạnh, vừa hối hả lại vừa nhịp nhàng: Xuân gội tràn đầy/ Giữa lòng hoan lạc/ Trên mình hoa cây/ Nắng vàng lạt lạt/ Ngày đi chầy chầy…/ Hàng cây xanh xanh/ Đâm chồi hi vọng…/ Ôi duyên tốt lành!/ Én đưa ngàn võng/ Hương đồng lên hanh/ Kề bên đường mòn/ Mùa đông đã tạnh/ Cỏ mọc bờ non…/ Chiều xuân tươi mạnh/ Gió bay vào hồn/ Có bàn tay cao/ Trút bình ấm dịu/ Từ phương xa nào/ Người cô yểu điệu/ Nghe mình nao nao…/ Nhạc vươn lên trời/ Đồi măng đang dậy/ Tưng bừng muôn nơi/ Mái rừng gió hẩy/ Chiều xuân đầy lời (Chiều xuân). Nếu như thời gian nghệ thuật trọng tâm trong bài thứ nhất là buổi sáng, bài thứ hai là ban đêm thì bài thứ ba là buổi chiều. Nhịp thơ nhanh, các sự vật ngoại cảnh đi vào trong thơ nhiều hơn, chi tiết tỉ mỉ hơn. Cả ba bài thơ xuân đã dẫn đều có cây xanh, nhưng ở bài Chiều xuân này, ta thấy cả sự hiện diện của hoa, của én, của cỏ, của nhạc, của măng. Và dường như linh hồn của bài thứ ba này là gió. Gió xuân tràn đi khắp nẻo, thổi sức sống cho muôn loài. Chính những cơn “gió bay vào hồn”, “gió hẩy” ấy đã làm hoa nở, én đưa, cỏ mọc, nhạc vươn, măng dậy… Tất cả đều vận động theo xu hướng mở rộng hoặc lên cao. Điều đặc biệt nữa là trong bài thơ còn xuất hiện hình ảnh người thiếu nữ qua các câu: Có bàn tay cao/ Trút bình ấm dịu…/ Người cô yểu điệu/ Nghe mình nao nao. Tình yêu đôi lứa, những rung động luyến ái được thể hiện kín đáo mà rạo rực. Con người không cần phải nói thêm điều gì mà tất cả như đã có thiên nhiên nói hộ lòng mình: Mái rừng gió hẩy/ Chiều xuân đầy lời.
Bài thơ mang thi đề mùa xuân cuối cùng trong tập Lửa thiêng có tên Hồn xuân, lại là một sáng tạo mới mẻ độc đáo của Huy Cận về bút pháp. Vẫn dùng thể thất ngôn với 6 khổ thơ nhưng cách biểu hiện về mùa xuân hoàn toàn khác với những bài thơ trước. Điểm nhìn trung tâm được chuyển qua hình ảnh một người thiếu nữ, xuyên suốt từ khổ đầu tới khổ cuối với những tu từ tràn ngập cùng hàng chục liên tưởng so sánh độc đáo: Ai biết em tôi ở chốn nào/ Má tròn đương nụ trán vừa cao/ Tiếng mùa về gọi lòng em dậy/ Lơ đãng lòng tôi chẳng kịp rào/ Ai biết người yêu nhỏ của tôi/ Người yêu nho nhỏ trốn đâu rồi/ Bảo giùm với nhá, em tôi đó/ Tròn trĩnh xinh như một quả đồi/ Ngực trắng giòn như một trái rừng/ Mắt thì bằng rượu, tóc bằng hương/ Miệng cười bừng nở hàm răng lựu/ Sáng cả trời xanh mấy dặm trường/ Anh khắp rừng cao xuống lũng sâu/ Tìm em, đi hái lộc xanh đầu/ Trồng dâu chân đẹp tròn như cột?/ Em đẹp son ngời như cổ lâu/ Nghe nhịp đời lên em bỏ anh/ Đua theo xuân nở rộn trăm cành/ Ý mùa cũng rộn trong thân mới/ Tóc rủ bờ tơ sợi liễu mành/ Khách qua đường ơi! Em tôi đây/ Chân em: cỏ mượt, mắt: hồ đầy/ Lòng em hóa cảnh chờ anh gặp/ Man mác hồn xuân ngọn gió hây. Trong bài thơ này, mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ và những luyến ái yêu đương. Hình ảnh người yêu được thi sĩ tạc nên bằng những biểu thức so sánh xuất hiện trùng điệp và nhiều bất ngờ: má tròn đương nụ, tròn trĩnh như quả đồi, ngực trắng giòn như một trái rừng, mắt bằng rượu, tóc bằng hương, hàm răng lựu, chân đẹp tròn như cột, son ngời như cổ lâu, chân cỏ mượt, mắt hồ đầy. Điểm thú vị nữa ở chỗ, hình ảnh người yêu được hiện lên trong nỗi nhớ, trong tưởng tượng của thi sĩ chứ không phải hai người đang ở gần bên nhau. Những câu thơ đầu mở ra giống như chàng trai đang đi tìm người yêu của mình. Và hai câu kết là những hẹn hò chờ đợi cho ngày gặp mặt. Thế nhưng đọc lại bài thơ, ta cũng có thể hiểu theo một cách khác nữa. Đó là thi sĩ đang yêu mùa xuân, yêu vẻ đẹp cuộc sống như một người tình. Người tình trong mộng tưởng vì thế cũng chính là cả sự sống kì diệu và cuộc đời bao la ngoài kia, khi mà mỗi ngày “ý mùa cũng rộn trong thân mới”.
Cảm hứng mùa xuân trong tập Lửa thiêng còn xuất hiện rải rác qua những câu thơ lẻ ở một số thi phẩm khác. Trong đó, ta có thể bắt gặp những câu thơ hồn nhiên trong trẻo tinh khôi: Chiều xuân chim sẻ vô trong lớp/ Ông giáo trông lên, chúng bạn cười (Học sinh), Đi bài đàn bồng bột của đời chung/ Thầm xuân ý trong nhịp đời nhún nhẩy (Họa điệu), lại cũng có những câu u buồn, man mác: Đời mất về đâu hỡi tháng năm/ Xuân không mọc nữa với trăng rằm (Buồn), Tôi không đành nói xấu/ Đời, đời rất hiền từ/ Nhưng hoa xuân không đậu/ Thôi mong gì trái thu! (Hối hận).
Tựu trung lại, cảm hứng mùa xuân trong thơ Huy Cận chủ đạo vẫn là lạc quan yêu đời, là tuổi trẻ gắn liền với những hẹn hò yêu đương, những khát khao mơ ước. Thi sĩ đã thể hiện cảm hứng mùa xuân ấy bằng một bút pháp linh hoạt, phong phú, sống động qua những vần thơ tràn nhựa sống, quyến rũ người đọc đến tận ngày hôm nay. Thật đúng như Huy Cận từng có lời tự bạch về mình trong một bài trả lời phỏng vấn báo chí năm 2002: “Tôi đa tình và đam mê…”
Theo Đỗ Anh Vũ - VNQĐ
Ở sách mới, Phan Triều Hải nhớ về thành phố gắn chặt với ký ức tuổi thơ, còn Du Tử Lê hoài niệm những thanh âm của phòng trà xưa.
Những quê hương trên trái đất này đều là nhỏ bé như những dấu chấm trên bản đồ, nhưng trong tim mỗi người, chúng mãi thôi thúc họ tìm về những kỷ niệm ấu thơ, về gia đình, về tình yêu đầu đời. Đó là những câu chuyện được chia sẻ tại buổi giao lưu giới thiệu sách “Những quê hương bé nhỏ: Congo, Burundi, Thuỵ Sĩ và Việt Nam” tối ngày 18/7, tại Hà Nội.
Từng bùng phát mạnh mẽ vào khoảng cuối năm 2015 đến 2016, năm 2017 bắt đầu suy thoái, nhưng bất ngờ, vào những ngày giữa năm 2018, hai đề tài du ký và lịch sử bất chợt trở lại thị trường sách trong nước.
Chưa bao giờ văn học trẻ lại vươn mình mạnh mẽ, trong đó phần nhiều là những cây bút trẻ với những cuốn sách tản mạn, tùy bút, tản văn, truyện ngắn. Nhiều tác giả trẻ rất có ý thức xây dựng hình ảnh cá nhân, duy trì sức nóng tên tuổi của mình và những cuốn sách.
Năm nay, thi sĩ Phan Vũ đã bước qua tuổi 92, và là nhân vật cao niên nhất trong làng thơ còn tại thế. Thi sĩ Phan Vũ tài hoa và đào hoa, nên sự thăng trầm của cuộc đời ông gần như không tránh khỏi.
Đọc sách của Bùi Nguyễn Trường Kiên, bạn đọc thấy rất nhiều bi kịch cuộc đời, các nhân vật chính hoặc là trẻ mồ côi, hoặc là những đứa bé bị bỏ rơi, thậm chí ngay cả các nhân vật phụ hoàn cảnh cũng không khá hơn.
Nhân dịp ngày Gia đình Việt Nam 28/6, cuốn sách Cùng con đi qua tuổi teen của hai tác giả Chu Hồng Vân và Vũ Thu Hà được ra mắt. Cuốn sách Cùng con đi qua tuổi teen tập hợp những câu chuyện chân thực, những tình huống sinh động mà cha mẹ nào hẳn cũng từng thấy mình phải đối mặt.
"Trở về từ cõi sáng", "Mật mã sự sống", "Trải nghiệm cận tử" góp phần để độc giả khám phá ý nghĩa cuộc sống.
Trong những năm trở lại đây, tự truyện – một trào lưu không mới nhưng vẫn bùng lên như một “cơn lốc” và được nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng ưa chuộng. Cùng với những thông điệp khác nhau mà mỗi cuốn tự truyện đem lại cho bản thân người viết và các độc giả, không ít cuốn lại như “con dao hai lưỡi” kéo theo những scandal ồn ào to nhỏ, khiến những người được nhắc tên trong sách tổn thương, khiến độc giả thất vọng, bị “sốc”...
Lễ trao Giải thưởng Văn học sông Mekong lần thứ 9 được Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức trang trọng ngày 15/6, tại Hà Nội.
Tác giả Lê Bá Thự tái hiện cuộc sống quê ông ở thế kỷ trước với cảnh bắt tôm, bắt cá, làm ruộng, chăn trâu...
Trong lịch sử dân tộc Việt, bên cạnh các bậc anh hùng, tráng sĩ, không thể không nhớ đến Nữ đô đốc Bùi Thị Xuân, Học sĩ Nguyễn Thị Lộ...
Tiểu thuyết tâm lý xã hội đầu tiên của văn đàn Việt Nam thế kỷ 20 từng một thời gây tranh cãi về giá trị thuần phong mỹ tục.
"Thần thoại Hy Lạp", "Một nhận thức về văn hóa Việt Nam" là hai trong ba tác phẩm sẽ ra mắt độc giả vào cuối tháng 5.
Người xưa có câu rất thấu lý: “Khôn văn điếu, dại văn bia”, tôi nhớ đại khái, không hiểu có sai chữ nào không.
12 truyện ngắn được viết từ Torino (Italy), trong niềm hoài cảm về Sài Gòn - nơi tác giả sinh ra và lớn lên.
Vào mùa hè năm nay, Nhà xuất bản Phụ nữ xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả bộ tiểu thuyết “Thiên nhạc” của nữ tác giả Trường An - một áng văn độc đáo thấm đẫm tinh thần Phật giáo của nước nhà.
Thời gian qua, nhiều nhà văn đã mạnh dạn “hoài cổ” với những truyện, tiểu thuyết lịch sử - đề tài thường không dễ, bởi nhìn người xưa, việc xưa qua lăng kính ngày nay, nếu không khéo sẽ có những ý kiến trái chiều.
Ngày 24/4, tại Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Nam Định tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Nguyễn Bính (1918-2018).
Xưa nay hiếm có những người trong làng văn mà giỏi võ, trong làng võ lại viết văn hay. Chính vì thế, khi nhà văn múa võ và võ sư viết sách thường gây nên những “cơn sốt” thu hút sự chú ý của nhiều người.