Cái hại khó lường của thành kiến văn chương

16:17 04/05/2009
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

Theo kinh nghiệm của riêng tôi, điều gì mà mau chóng dễ dàng nhất trí thường là nhạt nhẽo, chẳng mấy giá trị thực tiễn. Còn ý nghĩa lý luận thì hẳn nhiên là không nên đặt ra làm gì: không có phát kiến mới mẻ đích thực nào lại nảy sinh trong sự êm thuận cả!

Vậy trong quan niệm văn chương ở ta hiện giờ, đáng e ngại nhất là điều gì? Chúng tôi nghĩ, chính là thiển kiến, thiên kiến, thành kiến – nhất là thành kiến. Chắc sẽ có người cật vấn: thế còn lầm lạc, sai lệch trong quan niệm thì sao? Câu trả lời là: đáng sợ chứ không đáng ngại, vì cái sai ở đây thường dễ phát hiện ra, dễ đồng tình phê phán, và dễ cùng nhau né tránh. Còn thiển kiến, thiên kiến, thành kiến thì khác, khó nhận ra hơn (người ta hay mang tâm lý xem thường chúng), lại phổ biến hơn (hầu như ai cũng mắc phải, không ít thì nhiều).

Biểu hiện rõ nhất của cái nhìn thiển kiến là xem nhẹ đặc trưng văn chương, đánh đồng sản phẩm văn chương với các sản phẩm khác của con người và xã hội, không thấy vẻ linh diệu của lao động sáng tạo, cảm thụ, và phê bình văn chương. Ví như, xem viết văn giống như bao hoạt động sản xuất vật chất, tác phẩm như một loại hàng hóa, và cảm nhận như một quá trình tiêu thụ. Còn thiên kiến trong cái nhìn văn chương lại quá chú trọng đến mặt này hay mặt khác trong nhận diện và đánh giá các hiện tượng, các hoạt động văn chương. Ví như, có nhà văn quá đề cao quan niệm của M.Proust khi ông cho rằng có hai loại ký ức, ký ức ý thức và ký ức vô thức; chỉ có ký ức vô thức mới liên quan đến sự sáng tạo văn chương. Hoặc như, có người tuyệt đối hóa câu nói sau của Schopenhauer: “Trong một tác phẩm nghệ thuật, cái ý muốn của tác giả, cái mục đích tác giả tự đặt ra cho mình, không có quan hệ gì. Ý muốn ấy, mục đích ấy chẳng có thể khiến văn thơ của một người bất tài trở nên có giá trị”. (Xem Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996, tr 268 – 269).

Những cái nhìn thiển kiến, thiên kiến đối với văn chương nếu kéo dài dễ đưa tới định kiến, thành kiến, và đây mới chính là điều đáng lo ngại nhất. Xin được phép so sánh, có thể là khập khiễng, với chuyện ăn uống. Người ta có thể ốm yếu hoặc sinh bệnh (chứ không thể chết được) do trong một thời gian dài toàn ăn đạm bạc hoặc độc món. Đáng ngại là khẩu khiếu con người dần dà quen đi, đến mức không còn biết phân biệt ngon dở, không biết nhận ra đâu là bữa ăn thanh đạm và đâu là bữa tiệc thịnh soạn nữa. Như vậy, khi thành thói quen, nhất là khi ăn sâu vào nếp cảm nếp nghĩ thì rất khó tẩy rửa, và vì thế rất khó tiếp nhận những gì khác với mình mặc dầu có khi vẫn biết đó là những điều đúng đắn, hợp thời và cần thiết. Tôi tán đồng với nhà thơ Thi Hoàng:

Muốn yêu một cái gì phải tốn sức gấp đôi
Muốn từ bỏ một cái gì
Phải tốn sức gấp hai lần yêu dấu!

Chỉ xin nêu một dẫn dụ: vấn đề nội dung và hình thức của tác phẩm văn chương. Tôi dám chắc một quan niệm như sau còn bám rễ khá sâu trong đầu óc của nhiều người, không loại trừ những người nghiên cứu và giảng dạy văn chương lâu năm mà không chịu tìm tòi, học hỏi:

- Phân tách rạch ròi nội dung và hình thức của tác phẩm.
- Xem hình thức chỉ là cách tổ chức chất liệu ngôn từ, nội dung là hiện thực được tái hiện và tư tưởng được biểu hiện qua hình tượng.
- Nội dung quyết định hình thức và hình thức biểu hiện nội dung.

Quan niệm hiện đại về vấn đề cơ bản này đã thay đổi hẳn:

- Cái nhìn nhị phân bị coi là lỗi thời. Hình thức giờ đây mang tính nội dung, và nội dung mang tính hình thức. Đâu như nhà thơ Nga tài năng Evtushenko có nói rằng: hình của ngọn lửa và dáng của ngựa phi đâu là vẻ bề ngoài, còn đâu là chất bên trong, thật khó bề phân biệt nổi. Và nếu một ai đó bảo hình thức là nội dung và nội dung là hình thức thì cũng không hẳn là hoàn toàn phi lý.

- Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức cũng được nhận thức lại: hình thức sáng tạo, sản sinh ra nội dung. Sẽ không có nội dung định hình từ trước, chỉ có nội dung được hình thành dần dần cùng với hình thức.

- Bản chất của hình thức cũng không còn như trước, nó mang tính chủ thể. M.Bakhtin phân biệt rõ hai lớp hình thức: hình thức kiến tạo nội dung và hình thức tổ chức vật liệu tác phẩm. Phương diện đầu là hình thức của nội dung, phương diện sau là kỹ thuật của hình thức, chức năng của từng loại không hoàn toàn giống nhau.

Sở dĩ có sự thay đổi như vậy vì trước nay ta thường đánh đồng phạm trù nội dung và hình thức trong triết học với phạm trù nội dung và hình thức trong nghệ thuật học. Đúng như giáo sư Trần Đình Sử đã viết: “Chỗ khác biệt của hình thức nghệ thuật với hình thức nhận thức là ở chỗ người ta tìm thấy hình thức nhận thức trong đối tượng và không cảm thấy chính mình và tính tích cực của mình” (Xem Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà nội, 1996, tr 120).

Vấn đề nội dung và hình thức trong tác phẩm văn chương chỉ là một ví dụ tiêu biểu. Định kiến trong quan niệm văn chương còn có thể tìm thấy ở những phương diện khác lắm khi cốt tử và cơ bản hơn nhiều, như quan niệm về chức năng và giá trị văn chương. Ở đây, hoài nghi khoa học rõ ràng cần phải luôn được coi trọng. Đọc Lã Thị Xuân Thu, tôi đặc biệt thấm thía chủ trương sát (xét) toàn diện mà thấu đáo. Vừa sát kim (xét đời nay), sát hiền (xét người giỏi), sát vi (xét những điều kín đáo), lại vừa sát truyền (xét những lời đồn đại). Đặc biệt là vừa sát nghi (xét những điều ngờ) lại vừa sát bất nghi (xét những điều không ngờ). Thiên Cẩn thính nói: “Nhân chủ chi tính mạc quá ư sở nghi, nhi quá ư kì sở bất nghi; bất quá ư sở bất tri, nhi quá ư kì sở dĩ tri. Cố tuy bất nghi, tuy dĩ tri, tất sát chi dĩ pháp, quỳ chi dĩ lượng, nghiệm chi dĩ số. Nhược thử, tắc thị phi vô sở thất, nhi cử thố vô sở quá hĩ” (Mối lo của bậc nhân chủ vẫn không phải là sai lầm trong những vấn đề ông ta nghi ngờ mà chính là sai ngay ở những việc mà ông ta hoàn toàn nắm chắc không chút nghi ngờ. Không sai ở những việc ông ta không biết, mà lại sai ngay ở những việc ông ta đã biết. Cho nên, dẫu đã biết, vẫn phải dùng pháp chế để thẩm sát lại, dùng độ lượng để đo lường nó, dùng số thuật để nghiệm chứng nó. Như vậy thì sẽ tránh khỏi sự nhầm lẫn phải trái và xử lý không xác đáng ).

Từ đó có thể nghĩ, mọi giá trị đều có giới hạn và chỉ là tương đối. Không nên biến những ý kiến, dẫu là khả tín nhất, thành những tín điều, đúng trong mọi lúc, mọi nơi. Tuyệt nhiên không nên lơi lỏng óc tự xét, tự vấn, tự phán. Đã có quá nhiều những bài học chua cay nhắc nhủ mỗi người chúng ta rồi. Chẳng hạn, một thời do không tìm hiểu đến nơi đến chốn bài báo Lev Tôlxtôi như là tấm gương của cách mạng Nga được V.Lênin viết tháng 9 – 1908, nhiều người đi đến chỗ đồng nhất lý luận nhận thức với lý luận nghệ thuật. Nên nhớ Lênin viết bài báo này gần như cùng một lúc với cuốn Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán – công trình chủ yếu tập trung thể hiện nhận thức luận của Người. Lênin viết bài báo trên nhằm làm sáng tỏ bản chất của nhận thức chứ không nhằm minh họa cho bản chất của nghệ thuật. Vậy là sẽ không có cơ sở để xem phản ánh hiện thực như là bản chất của mọi tác phẩm nghệ thuật, và như là quy luật của mọi sáng tạo nghệ thuật.

Trong tư duy khoa học, việc tìm hiểu cặn kẽ và vận dụng sáng tạo mọi lý thuyết tưởng là chuyện cũ hóa ra lại luôn mới. Đáng lưu tâm là hiệu quả thực tế của nó. Phải chăng mọi trì trệ trong sáng tác văn chương đến giờ có căn nguyên sâu xa trước hết ở quan niệm nông cạn và ít đổi thay của người cầm bút?

P.Q.T

(169/03-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯ      

    Trong kho tàng thi ca Việt Nam chỉ thấy độc nhất một bài tả Hội Tây thời Pháp thuộc. Đó là bài Hội Tây của Nguyễn Khuyến.

  • THÁI PHAN VÀNG ANH    

    Trong tiểu thuyết Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà từng giễu kiểu người sính chức danh với cacvidit dài dằng dặc những nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà nghệ thuật học…, rằng: “nhiều nhà như thế đáng nhẽ phải gọi là phố”.

  • PHAN NGỌC

    Tôi kể dưới đây những điều mắt thấy tai nghe. Nó là bình thường đối với thế hệ những người 65 tuổi trở lên nhưng có thể có ích đối với các bạn trẻ mà giai đoạn này đã diễn ra trước khi các bạn ra đời. Cho phép tôi nói một vài sự kiện có tính chất tiểu sử mặc dầu tôi không xem việc kể chuyện gia đình là quan trọng.

  • PHAN ĐÌNH DŨNG

    1. Có thể tìm hiểu những đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV qua một số phương diện tiêu biểu như ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật hay hình tượng (con người, thiên nhiên, không/thời gian nghệ thuật), thể thơ, kết cấu, cách miêu tả thể hiện, giọng điệu… Đây là cách nghiên cứu “diện”.

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    Tự Lực văn đoàn đã khởi sự hoạt động báo chí và văn chương của mình trong một thời điểm chứa đầy cơ hội và thách thức.

  • NGUYỄN MẠNH TIẾN    

    Sự tương hợp của những môtip truyện họ Hồng Bàng hay con rồng cháu tiên [viết tắt: rồng tiên] được chuẩn hóa như huyền thoại quốc gia bắt đầu từ trong truyền thống Ngoại kỷ của Toàn thư người Việt với vũ trụ luận Mường, Thái là một chủ đề thú vị.

  • Kỷ niệm 88 năm báo Phong hóa (7/1932 - 7/2020) và Tự Lực văn đoàn

    PHẠM PHÚ PHONG

    Nhất Linh là một kiểu mẫu hoàn hảo của trí thức Việt Nam, có thêm một cái gì rắn rỏi và thẳng thắn, rất hiếm có.                                                                                   (Sainteny)

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG     

            (Gởi Hoàng Thị Hạnh)

  • MAURICE BLANCHOT    

    Có lẽ Kafka muốn tiêu hủy tác phẩm của mình, vì chúng dường như với nhà văn tất sẽ làm tăng lên sự hiểu nhầm chung.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN

    Trong tình hình phát triển hiện nay của lý luận (thuộc mọi lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn) người làm công tác lý luận và phê bình văn học không thể không xem xét và xác định lại những khái niệm lý luận văn học, kể cả những khái niệm vẫn được xem là "cơ bản", "trung tâm", "cốt yếu"...

  • TRẦN NGỌC HIẾU    

    Vị trí tiên phong của Nguyễn Minh Châu trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 đã được thừa nhận ở nhiều khía cạnh như quan niệm về con người, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức trần thuật...

  • THANH NGÂN  

    Kết cấu vừa là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm, vừa là phương tiện khái quát nghệ thuật. Cho nên, nó đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc khái quát và thể hiện tư tưởng - cảm xúc của tác phẩm văn học nói chung. Khi đánh giá kết cấu tác phẩm không phải chỉ xét nó dưới sự hài hòa, cân đối của nội dung.

  • MAI VĂN HOAN  

    Số người biết về Nguyễn Hành hiện nay rất ít. Tôi có hỏi một vài người quan tâm đến văn chương, các vị ấy đều không hề biết Nguyễn Hành là ai.

  • PAUL DE MAN  

    Phát hiện khá muộn màng về tác phẩm của Georg Lukács ở phương Tây và gần đây nhất, ở đất nước này, đã có xu hướng cô đặc lại quan niệm về sự chia rẽ rất sâu sắc giữa Lukács thời kỳ đầu phi Mác-xít và Lukács thời kỳ sau theo Mác-xít.

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    1. Không đơn thuần là “mô phỏng”/ “phản ánh”, một kiểu “chủ nghĩa đề tài” quen thuộc trong văn học về chiến tranh và cách mạng, văn học Việt Nam đương đại đã trực tiếp tham dự vào quá trình kiến tạo diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ

    Từ khi có bài báo ngắn Dân là gốc hay lấy dân làm gốc của Văn Như Cương (Văn nghệ số 48-1988), một số bạn đã viết bài bàn lại, nói chung cho rằng nói "Lấy dân làm gốc" vẫn không mất ý nghĩa tốt đẹp của nó. Tôi cũng tán thành với các ý kiến đó, mặc dầu tôi vẫn cho rằng dịch "dân là gốc" như anh Cương bàn cũng đúng.

  • NGUYỄN VĂN HÙNG    

    Chuột là loài vật luôn hiện hữu trong cuộc sống con người, bao gồm cả đời sống vật chất lẫn đời sống văn hóa tinh thần.