Các nhà văn cho điểm Marcel Proust

15:56 01/09/2008
ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.

Tại Việt Nam, tập thứ hai, (giải Goncourt năm 1919), có tên Dưới bóng những cô gái tuổi hoa của bộ tiểu thuyết trên, đã được Nguyễn Trọng Định dịch sang tiếng Việt năm 1992, tại nhà xuất bản Văn Học. Nhà nghiên cứu người Pháp Bemard Raffalli cho rằng "toàn bộ nền văn học Pháp sẽ được đọc trước hoặc sau Proust": cuộc cách mạng tiểu thuyết của Proust được coi như cuộc cách mạng của Copernic (1) hay của Einstein (2). Từ rất sớm, các nước Mỹ, Anh và nhất là Đức đã coi Proust là nhà văn đứng đầu của thế hệ ông. Cho đến nay, sau Proust, tiểu thuyết Pháp thế kỷ vừa qua chưa từng chứng kiến lại hiện tượng nào tương tự mà tác phẩm lại làm "cạn kiệt" thể loại như thế. Trong hai đợt bình chọn: năm 1990, về "Mười cuốn sách Pháp hay nhất cho những năm 2000" và năm 1992, về "Mười cuốn tiểu thuyết được đánh giá là hay nhất trong văn học Pháp" thì đợt I, M.Proust được xếp đầu bảng, đợt II, không xếp theo thứ tự mà chỉ xếp theo vần chữ cái tên tác giả. Tạp chí Đọc (Lire), tháng 7 năm 1997 mở cuộc thăm dò 9320 độc giả Tây Ban Nha về mười đầu sách đã được đọc suốt trong thế kỉ XX, thì Đi tìm thời gian đã mất được xếp thứ tư sau Marquez (3) (Colombia, Nobel 1982), Camilo José Cela (4) (Tây Ban Nha, Nobel 1989) và Ramon del Valle-Inclán (5) (Tây Ban Nha, 1866-1936). Tuy nhiên, tình hình đã không diễn ra như vậy khi tác phẩm của Proust mới xuất hiện với ngay các nhà văn đồng bào của ông.
B.Raffalli cho biết vào giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, những nhà Siêu thực đã không hiểu Proust. Tháng 3 năm 1921, trên tạp chí Văn học các nhà văn đã cho điểm Proust: L.Aragon (6) cho 0/20, A.Breton (7) cho 6, còn P.Eluard (8) cho 8. Văn học dấn thân giai đoạn 1930-1950 trách Proust đã không quan tâm đến thời cuộc. Tạp chí Châu Âu năm 1935 đã coi ông ở "ngoài lề xã hội" và, đến ngày 12 tháng 3 năm 1937, tờ Thứ Sáu đã tuyên bố. "Proust đã chết, chết hẳn rồi, đã khá xa chúng ta đến mức người ta có thể...".
Năm 1949, Gaetan Picon, một nhà phê bình nổi tiếng, đã viết trong Tổng quan về nền văn học mới của Pháp: "Nếu tôi không nói về Proust, thì không phải là tôi không biết về ông và phủ nhận ông mà bởi tác phẩm của ông đã xa vời chúng ta không chỉ về năm tháng, mà còn bởi bản chất của nó nữa".
Nhưng đến giữa thế ki XX, đã có ba hiện tượng làm thay đổi lại toàn bộ những cách nhìn trên về tác phẩm của Proust: đó là việc xuất bản cuốn Đi tìm Marcel Proust của André Maurois (9) (1949); hai cuốn Jean Santeuil (1952) và Chống Sainte-Beuve của Proust (1954).
Giới phê bình từ đây bắt đầu ồ ạt khám phá lại Proust và tác phẩm của ông. Vào năm sinh lần thứ một trăm của Proust, năm 1971, người ta đã tính được 600 đầu sách viết về cuộc đời và tác phẩm của Proust.
Nữ văn sĩ nổi tiếng người Anh. Virginia Woold (10) (1882-1941) đã viết: "Cuộc phiêu lưu lớn của tôi, đó thực sự là Proust. Còn cái gì để viết nữa sau cái đó? [Đi tìm thời gian đã mất ND] Jean Cocteau (11) đã nhận xét về cấu trúc của Đi tìm thời gian đã mất là: "Một họa đồ kì vĩ, tràn ngập ảo ảnh, những khu vườn chồng chất lên nhau, các phần [của tác phẩm] vận động giữa không gian và thời gian". A.Gide (12) đã phát biểu: "Nếu như ngày nay tôi tìm thấy cái điều khiến tôi thán phục nhất trong tác phẩm này, thì tôi nghĩ rằng đó là tính vô tư của nó (...) Một tác phẩm mới lạ lùng làm sao. Bước vào đó cứ y như ta đang bước vào một khu rừng bị phù chú". Curtius, nhà nghiên cứu hiện đại người Đức, đã nhập tên tuổi của Proust vào với Einstein. Proust ngạc nhiên ngược lại với vinh dự đó, đã viết rằng, ông: "không biết đại số học" và "có lẽ chúng tôi có mặt phương diện tương đồng là đã làm sai lạc thời gian". Các nhà văn, nhất là các nhà nghiên cứu lớn đều nói đến sáng tạo của Proust về thời gian. Trong số đó, đáng chú ý nhất là các công trình của các nhà nghiên nổi tiếng của Pháp và nước ngoài: G.Poulet, G.Genette, J-Yves Tadié, J.Kristeva, P.L.Rey, P.Ricoeur, W. Hachez, G.Steel...
Các nhà nghiên cứu đã coi Đi tìm thời gian đã mất chính là một Tấn trò đời mới, hay đúng hơn là một Thần khúc về con người và xã hội. Tất cả mọi tầng lớp: thượng lưu, quý tộc những người lao động làm công, những bà giúp việc, những người hầu bàn, trông coi thang máy của thời Hoa lệ Pháp cùng những vấn đề về xã hội, lịch sử, tình yêu, sự sống, cái chết, triết lí, âm nhạc, hội  họa,... đều có mặt trong kiệt tác của Proust.
Cuộc cách mạng tiểu thuyết của Proust rộng lớn và sâu sắc đến mức, khác với lúc mới ra đời, giờ đây, mỗi trường phái, mỗi trào lưu phê bình càng ngày càng nhận thấy trong tác phẩm của ông những vấn đề quan tâm lý thú của họ: giới phê bình phân tâm học sáp nhập Proust với Freud để đi tìm cấu trúc của ham muốn thông qua những ẩn dụ hay những mặc cảm Oedipe được "ẩn giấu"; phê bình cấu trúc học về tiếng vang và những tương ứng; phê bình ký hiệu học về những ẩn dụ trong tác phẩm, nghiên cứu theo hướng phân tích chủ đề có trụ sở ở 45 phố Ulm, Paris thiên về kiến trúc, hội họa, âm nhạc...
Một điều hết sức kì lạ là, chính trong lúc tại Pháp còn đang chưa kịp hiểu Proust, thì ở Việt Nam chúng ta ngay từ những năm 30, nghĩa là chỉ trên dưới chục năm sau khi Proust qua đời, Thạch Lam, người phụ trách mục Theo dòng, hằng tuần bàn về những vấn đề đọc sách, học thuật trên báo Ngày nay đã giới thiệu tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất và Thạch Lam có nhắc đến trường đoạn chiếc bánh madelaine: "La Petite Madelaine" và đã dịch nhằm là "Cô bé Madelaine". Sau đó hai, ba tuần Thạch Lam đã tự nêu cái nhầm của mình và thẳng thắn nhận lỗi vì chưa đọc trọn tác phẩm và ngỏ lời cảm ơn độc giả đã chỉ giùm và mong được giúp đỡ tiếp (13). Tâm hồn và đức tính trung thực của Thạch Lam thực đáng kính trọng. Dù chưa đọc hết tác phẩm của Proust, (vả chăng, đã mấy ai là dám khẳng định rằng mình đã đọc hết tác phẩm của Proust), nhưng có phải vì thế mà Thạch Lam chưa góp công lao vào việc giới thiệu một nhà văn lớn mà ngay trong chính quốc văn còn bỡ ngỡ? Một nhà văn nước ngoài muốn được "nổi tiếng" ở một xứ sở khác thì không có con đường nào khác ngoài việc giới thiệu và dịch thuật của chính những con người của nơi tiếp nhận. Việc làm của Thạch Lam thực đáng trân trọng và mang ý nghĩa tiên tri khi giờ đây danh tiếng về tài năng của Proust đã vang trên khắp thế giới.
Bằng cách đó, Thạch Lam đã cho điểm Proust theo cách của mình chăng?
Hà Nội, 2002
Đ.D.H

(nguồn: TCSH số 162 - 08 - 2002)

 



---------------------------
1. Copernic (1473-1543), nhà thiên văn học người Ba Lan đi ngược lại với tư tưởng phi khoa học đương thời, ông cho rằng Trái đất không đứng yên trong Vũ trụ mà tự quay quanh nó và quay quanh Mặt trời.
2. Einstein (1871-1955), nhà vật ]ý học nổi tiếng gốc Đức nhập quốc tịch Thụy Sĩ năm 1990, sau đó nhập quốc tịch Mỹ. Ông là người đề ra Thuyết tương đối giải thích nhiều hiện tượng về nguyên tử cũng như thiên văn học.
3. García Márquez (Gabriel), sinh 1928, nhà văn . Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch bằng tiếng Việt, giải Nobel l982.
4. Cela (Camilo José), nhà văn Tây Ban Nha, sinh 1916, tác giả của Gia đình Pascal Durante (l942), Bầy ong (1951), Văn phòng tăm tối (1973)... Giải Nobel 1989.
5. Valle-Inclán (Ramon del ), (1866-1936), nhà văn Tây Ban Nha, tác giả của nhiều tập thơ và truyện hiện đại (Những bản Sonates 1902-1905). Sau đó chuyển sang viết bộ ba vở kịch Những hài kịch man rợ (l907-l922), ở đó ông đã sáng tạo nên một thể giới kì lạ với những nhân vật bợm nghịch, biến dạng...
6. Aragon (Louis), nhà thơ cộng sản Pháp (1897-1982), ban đầu có chân trong chủ nghĩa Siêu thực, tham gia kháng chiến.
7. Breton (André), nhà thơ Siêu thực Pháp (1896-1996).
8. Eluard (Paul), nhà thơ Siêu thực Pháp (1895-l952).
9. Maurois (André), nhà văn Pháp (1885-l967).
10. Woolf ( Virginia ), (1882 -1941), nữ văn sĩ nổi tiếng người Anh.
11. Cocteau (Jean), nhà văn và nhà viết kịch bản điện ảnh Pháp (1889-1963).
12. Gide (André), nhà văn Pháp (1869-1951).
13. Văn, số 36, 15/6/1965. Bài: Tìm hiểu Thạch Lam thêm một vài khía cạnh, của Đinh Hùng.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.