VŨ HIỆP
Quá trình di cư và định cư, sự thích ứng với thổ nhưỡng và môi trường sinh thái, những biến cố và lựa chọn lịch sử, di truyền sinh học và văn hóa... đã tạo nên những đặc tính nghệ thuật khác nhau được lưu truyền ở các dân tộc. Hiện tượng đó có thể gọi là Mã gien nghệ thuật.
Ảnh: TT&VH
Mã gien nghệ thuật nằm sâu bên trong các biểu hiện của văn hóa, nghệ thuật. Nó âm thầm chỉ huy đến quá trình sáng tạo mà nghệ sĩ và công chúng không dễ nhận ra. Mã gien xuyên qua các thời đại khác nhau, kết nối những phong cách, xu hướng khác nhau để quy hồi tất cả trở về với đặc tính nguyên gốc của dân tộc, xa hơn nữa là giống loài.
*
Các hình thức biến dị của mã gien nghệ thuật bao gồm: giao biến, di biến, thời biến, và đột biến.
Giao biến là biến dị có được qua sự pha trộn, giao thoa các nền nghệ thuật khác nhau. Dân tộc Việt Nam được định hình từ sự giao lưu các dân tộc từ phương Bắc (Bách Việt, Hán, Thái...) và các dân tộc Nam Đảo nên nghệ thuật là sự hòa trộn các hình thức, nguyên lý, đặc tính của ít nhất hai nguồn gốc này. Trong kiến trúc, người Việt sử dụng vật liệu gỗ, cách bố cục mặt bằng, không gian của các dân tộc phương Bắc, nhưng lại làm đẹp nhờ nghệ thuật chạm khắc tinh xảo của các dân tộc phương Nam. Kiến trúc gỗ của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc nhìn sơ qua thì có vẻ giống Việt Nam, nhưng đi sâu vào bên trong thì thấy có sự khác biệt về phương thức cảm xúc và tinh thần. Kiến trúc Trung Quốc, Nhật Bản tạo cảm giác chuẩn mực, ngay ngắn, chắc chắn, hầu như không sử dụng chạm khắc mà thiên dùng tranh để trang trí hoặc tô màu lên cấu kiện. Còn kiến trúc Việt Nam tạo cảm giác lãng mạn, bay bổng, phong phú, gần gũi, bởi tỷ lệ vừa phải, dáng mái cong và những đường nét chạm khắc tinh xảo, giàu cảm xúc. Nghệ thuật chạm khắc của người Việt cũng ít khi tràn ngập trên bề mặt cấu kiện như trong kiến trúc Khmer, Ấn Độ, mà sắp đặt theo nguyên lý cân bằng âm dương: chỗ nhiều chỗ ít, chỗ có chỗ không, giống như cách bố cục trên bức tranh thủy mặc của Trung Quốc vậy.
Về hội họa, trước đây người Việt tư duy trên mặt phẳng (của giấy, lụa) không được sâu sắc như người Hán, Nhật, mặc dù thường xuyên giao lưu văn hóa với họ trong hàng ngàn năm phong kiến, chứng tỏ người Việt không có mã gien tương thích với hội họa thủy mặc. Tranh dân gian của chúng ta cũng gắn liền với khắc. Thế nhưng, chỉ cần 10 - 20 năm được người Pháp hướng dẫn theo phương pháp và kỹ thuật hội họa phương Tây, người Việt Nam đã có thể đạt được những thành tựu đáng kinh ngạc bằng sự ra đời dòng tranh lụa và sơn mài mang vẻ đẹp đặc sắc của Việt Nam. Phải chăng, mã gien hội họa của người Việt rất hợp với tư duy phương Tây chăng? Có thể nói, nhờ có giao biến mà nghệ thuật Việt Nam đã xác lập được những mã gien độc đáo của riêng mình.
Di biến là biến dị qua sự di cư đến vùng đất mới có sinh thái khác với vùng đất cũ. Theo bản đồ phân tán gien qua quá trình di cư của loài người, người Tây Tạng, Triều Tiên, Nhật Bản, Altai, Miêu, có tần suất xuất hiện nhóm đơn bội D khá cao, có thể họ cùng xuất phát đâu đó ở khu vực Tây Bắc Trung Quốc ngày nay, xa hơn nữa là từ phía Bắc Ấn Độ, rồi phân nhánh. Đặc biệt ở người Tây Tạng, đơn bội D-M174 cao hơn tất cả dân tộc khác. Điều này khiến các nhà di truyền học cho rằng điều kiện sống trên núi cao, không khí loãng, làm cho đơn bội D-M174 phát triển. Có lẽ bởi sống trên núi cao với cảnh quan rộng lớn phi thường, người Tây Tạng có tư duy siêu linh mạnh mẽ, bí hiểm. Nghệ thuật Tây Tạng gắn liền với tôn giáo, nhưng không bảng lảng ẩn hiện theo hướng Thiền và Đạo như ở Trung Nguyên, mà kỳ bí, dữ dội, thể hiện một thế giới tinh thần rất gai góc, mạnh mẽ. Những người có thể sống được trên núi rất cao thì trước hết là những người có ý chí và nghị lực phi thường. Tinh thần đó chúng ta cũng bắt gặp ít nhiều ở người H’Mông của Việt Nam, một dân tộc có thể có cùng tổ tiên xa với người Tây Tạng. Theo truyền thuyết truyền khẩu của người H’Mông (Miêu, Mèo), tổ tiên của họ vốn sống ở vùng đất cực kỳ lạnh lẽo, sau di cư đến Trung Quốc, bị người Hán truy đuổi nên đi tiếp về phía Nam, một nhánh đến miền núi phía Bắc Việt Nam định cư.
Nhật Bản thời phong kiến chịu ảnh hưởng rất mạnh từ văn hóa, nghệ thuật Trung Hoa. Ở ngoài đảo nên họ giữ được độc lập chính trị với Trung Nguyên. Người Nhật Bản không có nhiều sự pha trộn gien. Trước khi giao lưu với phương Tây, nghệ thuật Nhật Bản thu nạp gần như chỉ từ một nguồn Trung Hoa và biến đổi sáng tạo dựa trên sự thích ứng bản địa. Trà, kiếm, võ, hội họa, kiến trúc... đều được xuất phát từ Trung Quốc nhưng lại phát triển đến một thái cực rất đặc trưng: đơn giản, sá tịch, sắc bén. Người Nhật thường bình thản, lạnh lùng, chậm rãi, có thể kiên trì rất lâu để đến được một thái cực mới; thị hiếu thẩm mỹ hướng đến sự đơn giản, tinh tế, nhất quán. Tinh thần đó rất hợp với quan niệm nghệ thuật Hiện đại của phương Tây thời công nghiệp hóa, nên khi “thoát Á” và học phương Tây, người Nhật ngay lập tức có thành tựu lớn trong kinh tế và khoa học, sau đó trong nghệ thuật, nhất là kiến trúc đương đại. Có thể coi nghệ thuật truyền thống Nhật Bản chính là một ví dụ của di biến, từ nghệ thuật Trung Hoa mà phát triển thành mã gien đặc sắc của mình. Có người còn cho rằng nghề sơn của người Nhật Bản đặc sắc có phần vì họ sống ở đảo “ít bụi” (bụi là một mối nguy với nghề sơn). Như vậy, nghệ thuật, con người Tây Tạng và Nhật Bản có những nét tương đồng về mã di truyền sinh học và nguồn gốc, nhưng do điều kiện sinh thái của hai dân tộc khác nhau mà phát triển những dị biến nghệ thuật khác nhau.
Mỹ La-tinh là nền nghệ thuật được tạo nên bởi di biến và giao biến. Người Nam Mỹ là sự hòa trộn giữa các dân tộc bán đảo Iberia châu Âu với người châu Phi và người bản xứ. Điệu nhảy Tango là sự hòa trộn và phát triển từ các vũ điệu truyền thống Tây Ban Nha và châu Phi. Đặc tính đơn giản và sâu lắng của người Bồ Đào Nha cùng với cảnh quan đồi núi của Brazil đã tạo nên vẻ đẹp đặc trưng trong kiến trúc Niemeyer: những đường cong nuột nà thuần khiết. Trào lưu văn chương hiện thực kỳ ảo ở khu vực này, mà nổi bật là Gabriel Garcia Marquez, là sự tiếp nối truyền thống nghệ thuật tiểu thuyết Tây Ban Nha với những tín ngưỡng, thần thoại bản địa. Marquez từng có thời gian sống ở châu Âu, nhưng rồi ông sớm quay lại Nam Mỹ bởi ông cho rằng những điều huyền thoại đang bị nguội lạnh ở châu Âu. Rất nhiều các đặc tính của người Iberia đã được phát triển và đổi mới nhờ vào sự thay đổi môi trường sinh thái và giao lưu với người châu Phi và bản xứ, mà chúng ta có thể nhận ra nhanh nhất là năng khiếu đá bóng và nhảy múa.
Thời biến là biến dị do thay đổi thời. Sự tiến hóa của loài người gắn bó chặt chẽ với sự biến chuyển tự nhiên, khí hậu, phương thức sản xuất, khoa học công nghệ...; tức là thời đại thay đổi thì mã gien cũng phải “điều chỉnh” theo để phù hợp. Các mã gien nghệ thuật không phải “tự đủ” ngay từ thuở ban sơ mà phải trải qua những thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, được tổng hợp từ các yếu tố sinh học, sinh thái, văn hóa.... Ví dụ, tính Chiết trung và Tối đa trong kiến trúc Nga chỉ xuất hiện với tần suất cao từ thế kỷ 15, sau khi người Slav hòa trộn mạnh mẽ với Mông Cổ và các dân tộc khác; trước đó, kiến trúc của người Slav giai đoạn thế kỷ 9 - 13 tương đối thuần nhất, thường sử dụng màu trắng và thể hiện hoa văn một cách tiết chế. Nghệ thuật nước Pháp thời tiền sử và Celtic có tính biểu hiện mạnh, nhưng sau khi chịu ảnh hưởng từ văn nghệ Phục hưng Italia và triết học Khai sáng, cùng với vị thế quân sự, chính trị trung tâm châu Âu, các đặc tính của nghệ thuật Pháp đã phần nào biến đổi, ví dụ: tính chuẩn mực, hào hoa, trang nhã của hiện thực cổ điển, tính nhạy cảm, lãng mạn của ấn tượng.
Có vẻ như nghệ thuật Việt Nam đang trong thời điểm biến tạo một số mã gien mới. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, cùng với quá trình đô thị hóa thần tốc hiện nay đã khiến nhiều thói quen sinh hoạt, lề lối làm việc, quan niệm sống trước đây của người Việt thay đổi. Một số đặc tính kiến trúc truyền thống gắn liền với xã hội nông nghiệp như Đa lớp, Ẩn dật, Linh điểm... nay bị suy yếu rõ rệt. Ngược lại, một số biểu hiện mới được “nhập khẩu” từ nước ngoài nhưng phù hợp với thời đại công nghiệp hóa, đô thị hóa như Tối giản, Hiển lộ, Trực thị... ngày càng được nhiều người ưa thích và biết đâu trong tương lai sẽ trở thành những mã gien kiến trúc của người Việt?
Trong một giai đoạn lịch sử nào đó của một dân tộc, có những “gien trội” xuất hiện với tần suất cao, được tỏa sáng hết mức; đồng thời có những “gien lặn” không phù hợp với thời đại ấy, phải đợi đến giai đoạn lịch sử tương thích sau đó mới thể hiện được phẩm chất của mình, ví dụ mã gien Chiết trung của người Việt Nam đã xuất hiện từ hàng nghìn năm trước nhưng chỉ thực sự bùng nổ khi chúng ta giao lưu sâu rộng với nghệ thuật Pháp và phương Tây, khoảng giữa thế kỷ 19 - giữa thế kỷ 20.
Thời biến cũng thể hiện sự ảnh hưởng của ý thức hệ, định chế xã hội, thành phần chính trị (nói chung là “thời thế”) đến mã gien nghệ thuật. Nghệ thuật Ai Cập cổ đại thời các Pharaon trị vì có tính siêu tượng và duy linh rõ nét, hợp nhất các vị thần với lãnh tụ quốc gia, phong thái cao siêu, bí ẩn, có vẻ như được tạo ra bởi các nghệ sĩ có liên hệ mật thiết với hoạt động tôn giáo. Sau đó nước này bị Hy Lạp, rồi La Mã xâm chiếm, nghệ thuật gắn liền với triết học nhiều hơn, tính hiện thực và quy thức được coi trọng (Alexandria từng là một thành phố của khoa học và nghệ thuật quan trọng của thế giới Hy-La). Đến khi những người Hồi giáo lên nắm quyền, nghệ thuật Ai Cập lại thiên về tính trừu tượng, vốn là một biểu hiện đặc sắc của nghệ thuật Hồi giáo. Một số dân tộc khác cũng ghi nhận sự biến đổi mã gien nghệ thuật khi thay đổi thời thế, như Ấn Độ với quyền lực chính trị thay đổi cùng tôn giáo (Hindu giáo, Phật giáo, Hồi giáo), hoặc Thổ Nhĩ Kỳ với mỗi giai đoạn lịch sử có quan điểm và phương tiện nghệ thuật khác biệt: Hy-La cổ đại, Byzantine, Ottoman. Chúng ta cũng lưu ý rằng, sau khi một quốc gia thay đổi thể chế chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo thì phải duy trì ổn định đủ lâu thì mã gien nghệ thuật mới có thể biến đổi. “Đủ lâu” là bao nhiêu thế hệ? Để trả lời câu hỏi này cần sự nghiên cứu sâu hơn mà chúng tôi chưa có điều kiện.
Ở một số quốc gia, thời biến còn được thể hiện ở sự khác biệt giữa nghệ thuật dân gian với nghệ thuật chính thống (của chính quyền hoặc của giai cấp tinh hoa), ví dụ nghệ thuật đế chế Nga được thế giới biết đến chủ yếu là do giai cấp quý tộc, tinh hoa sáng tạo, còn những gì đặc sắc nhất của nghệ thuật Việt Nam phần lớn do những người thợ vô danh trong dân gian thực hiện. Lịch sử Việt Nam thời các triều đại phong kiến luôn song hành hai dòng nghệ thuật (nhưng không tách biệt), đó là: nghệ thuật cung đình, chịu ảnh hưởng rõ rệt từ Trung Hoa; và nghệ thuật dân gian, chủ yếu được sáng tạo trong không gian làng xã, thể hiện những đặc tính nghệ thuật cốt lõi (mã gien nghệ thuật) của người Việt. Ví dụ, chúng ta có thể nhận ra sự ảnh hưởng từ Trung Hoa đến kiến trúc cung đình Huế ở cách quy hoạch đô thị, bố cục chức năng hay hình thức mái ngói âm dương. Trong khi đó kiến trúc dân gian, nhất là ở đình làng, lại là nơi gửi gắm tâm hồn và tư tưởng của nhân dân Việt Nam. Ở đình, chúng ta có thể thấy sự phóng khoáng, mộc mạc, được biến hóa sinh động ở mỗi làng nhưng dường như đều có chung một quy thức tinh thần. Tục ngữ có câu “phép vua thua lệ làng”, chứng tỏ sức sống bền bỉ của văn hóa làng xã. Lịch sử đã chứng minh sự thất bại trong nỗ lực đồng hóa người Việt của người Hán hay người Pháp, nguyên nhân cốt lõi phải chăng là sự bảo thủ của những “lũy tre làng”, nơi “phép vua” theo kiểu Hán hay Pháp cũng phải chào thua?
Đột biến là biến dị bộc phát bất thường. Trong sinh học, đột biến xảy ra do các tác động bất thường của vật lý, hóa học, vi sinh. Trong nghệ thuật, đột biến là sự xuất hiện các trường phái có tư tưởng nghệ thuật hoàn toàn khác lạ, thay đổi cách con người tư duy về nghệ thuật, là các thiên tài tạo nên những tác phẩm khiến cả thế giới phải ngỡ ngàng, thậm chí “khó chịu”. Sự đột biến ở đây nằm ở cấu trúc chứ không chỉ ở hình thức. Đột biến vượt thoát khỏi những nguyên lý tạo nên cấu trúc (cả cấu hình và biến thiên). Nguyên nhân tạo nên đột biến nghệ thuật có thể là do sự “cộng hưởng” của các yếu tố di truyền, sinh thái, văn hóa... trong một điều kiện đặc biệt nào đó. Sự ra đời của hội họa Ấn tượng, Trừu tượng, kiến trúc Bauhaus, Deconstructivism, sự xuất hiện các tác phẩm như Tháp Eiffel ở Paris, Hình vuông đen của Malevich, Đài phun nước của Duchamp, Bảo tàng Guggenheim Bilbao của Gehry... có thể coi là những ví dụ đột biến. Chúng đã tạo ra những quan niệm chưa từng thấy về nghệ thuật, mà hàng thập kỷ, thế kỷ sau đó vẫn tạo cảm hứng cho các thế hệ nghệ sĩ đời sau. Nghệ thuật của đột biến thường không “đẹp”, bởi nó đã vượt qua các tiêu chí thông thường trước nó về “đẹp”.
Khả năng tạo ảnh hưởng, di truyền cho đời sau của các đột biến nghệ thuật có thể xảy ra hoặc không. Đôi khi, có những thiên tài nghệ thuật xuất hiện như những ngôi sao băng, người đời sau không thể học theo được. Đó là những con đường độc đạo dẫn thẳng lên đỉnh núi rồi như bị lấp đi. Những kẻ hậu thế chỉ có thể bái vọng họ mà thôi. Đó là những người đã kiến thiết Vườn treo Babylon, Kim tự tháp Giza; là những nghệ sĩ được trời phú cho những kỹ thuật siêu đẳng, vô tiền khoáng hậu như kỹ thuật chơi violon của Paganini, khả năng chạm khắc của Tô Phú Vượng; là những thiên tài đã đi trước thời đại mình nhiều thập kỷ, thế kỷ khiến cho họ không thể có môn đệ một cách xứng đáng, như Imhotep, Apelles, Ngô Đạo Tử... Họ đã trở thành những vị thánh. Nhưng để có sự đột biến thiên tài ấy, trước hết mã gien nghệ thuật của dân tộc sản sinh ra các vị ấy phải rất mạnh, rất đặc sắc. Không có con đại bàng nào sinh ra từ vườn trại gà vịt cả.
*
Dân tộc ta có một đặc tính rất mạnh là khả năng di truyền văn hóa, không khoa trương nhưng rất bền bỉ. Dù đã từng là thuộc địa nghìn năm của Trung Hoa, gần trăm năm của Pháp, vốn là những nền văn minh lớn của nhân loại, có khả năng đồng hóa kẻ khác rất mạnh, nhưng rốt cuộc chúng ta vẫn giữ vững và phát triển những tính chất nghệ thuật đặc sắc của riêng mình. Đó chính là cảm hứng để chúng tôi tin tưởng rằng lý thuyết Mã gien nghệ thuật là một hướng nghiên cứu đúng đắn, ít nhiều có triển vọng. Lý thuyết này không có tham vọng khiến ai đó đọc nó thì sáng tác tốt hơn. Nó chỉ đặt ra một vấn đề nhận thức rằng: người Việt Nam thế nào thì về căn bản sẽ tạo ra nghệ thuật thế ấy.
V.H
(TCSH381/11-2020)
THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.
TRẦN HOÀI ANH 1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.
NGUYỄN DƯƠNG CÔN Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.
LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?
PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...
PHI HÙNG(tiếp theo)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...
HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.
PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.
PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ. L.Tonstoi
TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.
PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.
NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.
HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...
NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".
BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.
THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.