Các cô gái Pacô xưa làm đẹp

09:46 26/03/2012

TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

Các dân tộc thiểu số anh em sống nép mình bên những dãy Trường Sơn hùng vĩ ở Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, có rất nhiều nét văn hóa độc đáo và riêng biệt. Trong đó có nét đẹp của nghệ thuật làm đẹp mà những chủ nhân của nó hiện ít nhiều còn giữ lại hoặc hồi tưởng qua kí ức.

Tết Aza của người Pacô - Ảnh: internet

Nếu như ở dân tộc Tà ôi, Bru - Vân Kiều chỉ muốn giữ lại vẻ đẹp trên gương mặt và cơ thể một cách tự nhiên như tạo hóa đã ban tặng thì số ít ở dân tộc Cơtu, Pahy, số nhiều ở người Pacô lại muốn thay đổi một chút ít bằng những nghệ thuật độc đáo được chiết xuất từ cây cỏ, từ những dụng cụ đơn sơ mộc mạc và bằng con mắt nghệ thuật của những người thợ tài nghệ cùng với quan niệm về một cái đẹp chuẩn mực của một tộc người, của những người đẹp xa xưa ấy. Vì thế, họ đã sáng tạo ra nghệ thuật làm đẹp một cách hài hòa và thống nhất để tôn lên vẻ đẹp vốn có của cơ thể mình.

Cái đẹp và cách làm đẹp đó đã trở thành những tập tục riêng biệt. Để các bạn trẻ cũng như những ai chưa biết đến về một tập tục đầy bí ẩn đó của người Pacô xưa và còn lưu ảnh cho đến ngày nay. Bài viết nhỏ này xin giới thiệu từng công đoạn của nghệ thuật làm đẹp và cách lưu giữ một vẻ đẹp hoàn mĩ của những người đẹp xa xưa ấy. Câu chuyện này được đúc kết từ các nghệ nhân đã từng trải qua thời khắc làm đẹp mà bây giờ nét đẹp ấy vẫn còn tươi nguyên.

1. Tục để tóc mái Chăng Kân noyh

Đây là một nét làm đẹp đặc trưng nữa dành chung cho tất cả mọi lứa tuổi của phụ nữ người Pacô. Khi cắt tóc họ chỉ chọn lấy những lọn tóc mềm ở trên trán, sau khi đo ngang tầm họ mới cắt nhẹ nhàng theo hình mẫu mái ngang, tóc mái chỉ cắt ngắn vừa, để lộ ra đôi lông mày có đường xăm thanh thoát và khuôn mặt rạng rỡ, còn tóc mái ở hai bên thì vẫn để nguyên được vuốt gọn ra sau nằm gọn trong lọn tóc bối. Để tăng thêm độ bóng đẹp cho mái tóc, phụ nữ người Pacô thường sử dụng dầu từ trái dừa, một loại dầu được Târ roonh (người yêu) mua của người đồng bằng thông qua buôn bán trao đổi.

Theo như lời các cụ kể: Tập tục xăm hình, cưa răng, căng tai, để tóc mái của các cô gái chàng trai người Pacô xưa không chỉ tăng thêm vẻ đẹp của riêng mình, tạo sự hấp dẫn, thu hút người khác giới để ý đến mình nhiều hơn, thích mình nhiều hơn, mà còn muốn đánh dấu sự khác biệt của dân tộc mình với dân tộc khác. Cụ Kả Nghĩa, thôn A Năm, xã Hồng Vân nói: “Nếu không xăm hình, không cưa răng, căng tai, cắt tóc mái thì các chàng trai chê cười, nói không phải là con gái Pacô mà là con gái người dân tộc khác”.

2. Tạo son môi

Ngày xưa, con gái người Pacô thường ra suối kiếm đá màu đỏ hoặc hồng (đá huyết) đem mài cho nhuyễn thành một thứ nước sền sệt để làm son môi. Một số người khác thì dùng lá cây krier giã nhuyễn, trộn với các hợp chất khác để bôi lên môi cho bóng và đẹp. Trước các dịp lễ hội, con gái thường cất công đến suối A Nôr hay đi xa hơn tận nguồn Ra Ho để kiếm đá màu. Con gái dùng son môi thường quyến rũ và được các chàng trai trong bản làng để mắt tới. Không chỉ dùng đá làm son môi, người Pacô còn biết sử dụng những loại lá cây giã nhuyễn để có màu xanh hay lấy chất màu đen từ nhựa trong tẩu thuốc để làm cho lông mày đen bóng, đậm nét, khó phai.

3. Mã não là trang sức quý

Với người phụ nữ Pacô, những hạt mã não là báu vật. Ngày trước, để có được mỗi hạt mã não, họ phải đổi bằng những con bò, con trâu, ngà voi, nanh và móng vuốt của con hổ. Trong cộng đồng Pacô gia sản của họ ngoài chum, chóe rượu cần, nồi đồng, chiêng, ché... thì những hạt mã não, vừa là trang sức, vừa là một biểu tượng về quyền lực và sự giàu có, sang trọng của họ. Ai có nhiều mã não, chắc chắn người đó rất giàu có và có địa vị cao trong cộng đồng. Mỗi một phụ nữ Pacô khi lấy chồng, của hồi môn mang theo luôn là những hạt mã não. Nhà nào giàu có thì cho con gái một đôi chuỗi; giàu vừa thì một vòng đeo tay; ít lắm thì cũng phải có một đôi hạt.

Bà Kăn Đân ở thôn 6, xã Hồng Thủy, huyện A Lưới kể: “Không chỉ là của hồi môn, mà ngày xưa trai gái người Pacô yêu nhau, quà tặng hay kỷ vật cũng thường là những hạt mã não. Bởi vậy, dù bây giờ giá trị vật chất của nó không còn như xưa, nhưng người phụ nữ Pacô vẫn nâng niu, gìn giữ những hạt mã não như một báu vật vì mỗi hạt có một số phận gắn liền với những câu chuyện kể và kỷ niệm buồn vui từ dĩ vãng”.
 

Cụ Kả Vế - Ảnh: internet

Cụ Kả Vế ở thôn Ta Ay, xã Hồng Trung, một trong những gia đình hiếm hoi còn giữ lại được 3 chuỗi mã não mà cụ luôn mang theo bên mình. Cụ Kả Vế cho biết đó là của hồi môn của gia đình nhà gái cho khi cụ theo về nhà chồng, chí ít nó cũng đã tồn tại hàng trăm năm nay. Cụ bảo: “Xưa không phải ai cũng có mã não mà đeo, chỉ có những nhà giàu có, nhiều trâu bò ruộng nương, có vị thế trong cộng đồng mới mua được mã não”.

Để có những hạt mã não gìn giữ cho đến ngày hôm nay, gia đình cụ Kả Vế đã phải đổi bằng 3 con trâu làm của hồi môn cho con gái ngày cưới. Với những gia đình giàu to, của hồi môn là những chuỗi mã não theo con gái trong ngày cưới; giàu vừa thì phải có vòng đeo tay; còn khó khăn lắm cũng kiếm được đôi ba hạt làm của hồi môn. Những hạt mã não thường gắn liền với phong tục thách cưới của người Pacô xưa.

Với những mẹ, những chị thì mã não là những vật vô giá không rời tay, gắn bó với họ suốt cả cuộc đời. Cụ Cả Hiệt ở thôn Vân Trình, xã A Ngo một trong những người hiếm hoi còn lại trong thôn giữ được 2 chuỗi mã não cho hay, trong thôn Vân Trình giờ đây, không còn mấy phụ nữ còn đeo hạt mã não như cụ. Người giữ nhiều nhất cũng có đôi ba chuỗi mà thôi. Xưa mã não quý hiếm là thế nhưng nay chỉ cần ra chợ, bỏ vài chục nghìn là có ngay những chuỗi mã não đẹp vì thế từ lâu, mã não đã mất đi giá trị quyền uy và tâm linh của nó.

Hơn thế nữa, tục thách cưới của người Pacô hiện nay không còn rườm rà, nặng nề như trước nữa nên mã não cũng không còn được dùng đến. Tuy nhiên, cùng với những chum, ché, chiêng… tồn tại đây đó trong các bản làng người Pacô, tục đeo chuỗi mã não đã tạo nên một nét văn hóa độc đáo, thể hiện quyền uy của những gia đình có vị thế trong xã hội. Nó còn mang bóng dáng của chế độ mẫu hệ tồn tại rơi vãi trong cộng đồng của người Pacô.

Giờ đây tìm những cụ bà còn giữ tục đeo mã não trên người đã khó, gặp được những phụ nữ trẻ đeo mã não càng khó hơn. Lớp trẻ người Pacô không còn mặn mòi gì với hạt mã não nữa khi mà nó không còn mấy dính dáng đến vị thế xã hội của một gia đình hay chẳng còn hiện diện trong ngày cưới của những đôi nam nữ.

Ông Hồ Văn Ngoan - Trưởng Phòng VHTT huyện A Lưới cho hay: “Mã não không chỉ là vật trang sức, qua nhiều năm tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi đã phát hiện những hạt mã não còn có mặt trong các môtíp trang trí của tượng nhà mồ (dưới cổ bức tượng) và trên một số vật dụng sinh hoạt khác như vải, a chói (vật dụng đựng đồ dùng khi lên nương rẫy). Điều này chứng tỏ ngoài ý nghĩa vật chất, làm trang sức, những chuỗi mã não còn gắn với đời sống tâm linh, tinh thần của người Pacô”.

Hiện nay, vẫn chưa thống kê được còn bao nhiêu cụ bà còn giữ được nét văn hóa truyền thống độc đáo này nhưng chắc chắn rằng, người còn đeo mã não thì rất ít và lớp trẻ là thế hệ con cháu thì không còn đeo mã não nữa. “Điều mất mát là theo luật tục của người Pacô, khi chết một trong những vật dụng buộc phải chôn theo chủ nhân của nó là hạt mã não nên càng ngày loại trang sức này càng ít đi trong cộng đồng dân tộc người Pacô.”

Hạt mã não đẹp và quan trọng là thế, nhưng bây giờ, tìm đỏ mắt cũng hiếm thấy một phụ nữ Pacô trẻ tuổi nào đeo trang sức bằng mã não. Mà thay vào đó là trang sức bằng bạc, đồng và vàng. Vậy là thêm một nét văn hóa độc đáo và đẹp đẽ của người Pacô sắp sửa bị mất đi. Đã vậy theo phong tục, mỗi một phụ nữ Pacô khi chết đi, một trong những vật dụng buộc phải chôn theo cũng là hạt mã não, nên loại trang sức này ngày một ít đi. Hiện trung bình mỗi phụ nữ lớn tuổi người Pacô còn giữ được nhiều nhất là khoảng 10 hạt mã não. Lưu ảnh mã não ở vùng người Pacô, Tà ôi, Cơtu trên dãy Trường Sơn chính là ảnh hưởng của nền văn hóa Sa Huỳnh một thời nổi tiếng ở vùng Trung Bộ.

Các chàng trai cô gái trẻ người Pacô ngày nay không còn tiếp nối tục làm đẹp độc đáo bằng nghệ thuật xăm hình, cưa răng, căng tai, để tóc mái, son môi và đeo mã não của những người đẹp Pacô thuở xa xưa ấy nữa. Nhưng không có nghĩa là họ lãng quên một nét văn hóa độc đáo mà cha ông để lại. Bởi một lẽ đương nhiên rằng: Làm đẹp phải phù hợp với từng thời đại, đặc biệt là nghệ thuật làm đẹp trên gương mặt của các cô gái chàng trai trẻ ngày nay luôn cuốn theo luồng gió hiện đại. Nếu luồng gió ấy có thể quay vòng và trở lại điểm xuất phát từ những ngày đầu tiên của nghệ thuật làm đẹp cổ xưa ấy thì quý biết mấy.

4. Tục xăm hình trên gương mặt và cơ thể

Để có một vẻ đẹp riêng biệt của dân tộc mình, các chàng trai, cô gái Pacô xa xưa có một cách trang điểm độc đáo bằng nghệ thuật xăm hình trên gương mặt và cơ thể. Để có được màu xanh lục tươi đậm của miền rừng xanh, họ thường chọn lấy từ những ngọn cỏ có tên A luông xanh tươi mơn mởn, sau đó được giã nhuyễn và lọc lấy nước cốt đậm đà trộn đều với than khói của nhựa cây A ngo và một loại thuốc dạng củ đặc biệt gọi là Tân đăr.

Dụng cụ xăm hình được lấy từ gai của dây Ki re, bởi đây là một loại gai không độc, không làm sưng tấy, viêm nhiễm. Người xăm hình cũng phải chọn người cẩn thận, có con mắt thẩm mĩ, mát tay và khéo léo. Đầu tiên, người này vẽ lên gương mặt và cơ thể theo sở thích của mỗi người, các loại hoa văn được vẽ làm sao cho phù hợp với từng khuôn mặt và cơ thể của người đó. Sau đó là đường châm của ba mũi kim bằng gai được bó chặt lại thành một và đưa tay thoăn thoắt chạy đều theo đường vẽ, đường xăm đi ngang nào thì nước cốt của cỏ A luông được thấm đều ngang đó.

Để đảm bảo nét thẩm mĩ và sức khoẻ, họ cũng phải qui định mũi kim bằng cách quấn chặt sợi bông ở đầu mũi kim và chừa lại mũi kim vừa tầm. Như vậy, khi châm vào, mũi kim sẽ không châm sâu vào da thịt, sẽ cho một đường nét vừa đậm lại vừa sắc xảo mà không bị thô ráp.

Các loại hoa văn cũng được qui định rõ ràng qua giới tính. Đối với các chàng trai thì được chọn các loại hoa văn thể hiện sự mạnh mẽ dứt khoát như: hình Tung alọ (đốt/khúc tre) được xăm ở trán, hình Kâl lăng tiêr (giàn bếp) được xăm ở hai bên má, hình Tân tiêng (con rồng), hình Ka hẹp (con rết), hình Ku ơơ (con rắn), hình Pa tưng zăng (ché rượu cần) được xăm ở bắp tay, ngực, bắp chân.

Đối với các cô gái thì được chọn các loại hoa văn thể hiện sự mềm mại như: hình Ula A rựưc lá của một loại cỏ đẹp có tên A rựưc được xăm ở bắp chân và cổ tay, hình Xah Ki xay (mặt trăng) dịu dàng được xăm ở dưới cằm, hình Mặt Âr baang (mặt trời) rạng rỡ được xăm ở trán, hình Tah Pân toor (chòm sao) lấp lánh được xăm ở hai bên má và hình Kéo a kọ (móc rựa) được xăm ngay ở hai đường lông mày để tạo đường cong mềm mại quyến rũ.

Tục xăm hình này không chỉ tăng thêm vẻ đẹp để cuốn hút sự chú ý của mọi người mà còn phòng tránh ốm đau khi đi xa, hay khi lên rừng xuống suối tránh được các loại rắn rết và côn trùng độc khác cắn vào.

Mặc dù là một tập tục, một nét đẹp dành cho chàng trai cô gái trẻ nhưng không phải ai cũng xăm được. Cụ Quỳnh Thạch dân tộc Pacô ở thôn Iry, xã Hồng Quảng, một người đã từng xăm nhiều hình đẹp mà hiện giờ vẫn còn hiện rõ trên gương mặt, ông cho biết: “Tục xăm hình ngày xưa chỉ dành cho những người có làn da trắng nõn nà mềm mại như cây Ki đoo (chuối rừng) mới bóc vỏ, thân hình bụ bẫm như cây A băng (măng) rừng đang lớn. Những người đẹp ấy khi được xăm các hoa văn lên gương mặt và cơ thể của họ thì nhìn càng đẹp càng duyên dáng hơn, nhất là khi đi dự lễ hội hay khi đi sim. Dưới ánh nắng vàng rọi vào áo váy, khố, để lộ ra những cánh tay bắp chân trắng ngần với những hoa văn đã được xăm lên thì nhìn ngắm mãi mà không chán. Còn với những người có làn da đen thì dù có muốn cũng không thể xăm được”.

Ở vùng cao A Lưới có 5 tộc người anh em: Pacô, Tà ôi, Cơtu, Pahy, Bru - Vân Kiều cùng sinh sống, nhưng tục xăm hình phổ biến nhất là ở người Pacô và Tà ôi, còn người Cơtu và Pahy cũng có nhưng chỉ số ít mà thôi. Già làng Hồ Thanh Xoa ở thôn Quảng Mai, xã A Ngo nói: “Người Pacô họ rất thích làm đẹp. Nhất là những người đẹp, đã đẹp lại muốn mình đẹp hơn! Nhưng nói thật, khi nhìn thấy họ mặc áo váy, khố đẹp cùng với hình xăm hiện lên trên trên gương mặt, cơ thể của họ thì mình cũng thấy đẹp và thích thật!”

Xưa kia cũng có những người đẹp được xem là lãng mạn và tinh nghịch, bởi ngoài những đường nét hoa văn được xăm ở bên ngoài để phô diễn cho mọi người được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của mình, thì còn có những người đẹp bạo dạn cho xăm vào những vùng như lưng, vú của mình một cách tự nguyện, điều này chỉ muốn làm sự tò mò của mọi người.

Cụ bà Kả Ngoan ở thôn Đụt, xã Hồng Kim, người được xem là mẫu người đẹp của người Pacô cũng là một người còn giữ nguyên nét đẹp hình xăm xa xưa hé lộ: “Xăm ở vùng như lưng và vú thì chỉ người con trai mà mình đi sim xăm thôi! Khi xăm chỉ có hai người với nhau! Còn người khác thì xấu hổ lắm!”

Tục xăm hình và các đường nét hoa văn của các chàng trai, cô gái Pacô, của những người đẹp xa xưa ấy vẫn còn hiện hữu ở các cụ đẹp lão ngày nay. Khi nhìn ngắm các cụ không chỉ cho ta thấy được một vẻ đẹp độc đáo vừa hoang sơ cổ kính mà còn cho ta một cảm nhận rằng: Những người đẹp của ngày xa xưa ấy đã biết tận dụng những màu sắc tinh túy để tôn lên vẻ đẹp mà tạo hoá đã ban tặng, vẻ đẹp ấy, màu sắc ấy luôn bền bỉ cùng thời gian.

5. Tục căng tai

Để vẻ đẹp độc đáo được hài hòa, người Pacô còn có thêm một tập tục nữa đó là tục căng tai. Từ khi còn bé các cô gái Pacô đã được cha mẹ xâu vào lá tai để tạo thành lỗ bằng gai A song Piêih (gai cây bưởi). Các bé gái nhỏ thì cho đeo những loại trang sức nhỏ gọi là Pâr oyh. Đối với con nhà khá giả, giàu có thì đeo những loại trang sức được làm bằng bạc, còn đối với con nhà nghèo thì đeo những loại như A poọ aưm, khi con gái đã đến tuổi trưởng thành thì họ thường đeo những loại trang sức gọi là Tâng kăm.

Để có một lỗ tai đủ rộng theo ưng ý của mỗi người, người Pacô thường lấy cọng Plăng (cỏ tranh) vừa tầm rồi cho vào cái lỗ đã xâu sẵn, rễ tranh là một loại rễ độc nên khi luồn vào nó sẽ ăn mòn da thịt dần dần và lỗ xâu đó ngày càng khoét rộng ra. Khi vết khô lành, họ không đeo rễ tranh nữa mà thay vào đó là vỏ bắp khô được cuộn tròn chắc được luồn vào lỗ tai gọi là Căng tai, những cuộn vỏ bắp đó cũng được làm nhiều kích cỡ, từ nhỏ đến to, cuộn này lỏng thì tiếp tục thay cuộn khác. Cứ như vậy, cho đến khi đã đạt được đôi lỗ tai ưng ý họ mới đeo một loại trang sức đặc trưng của người Pacô có tên Tâng hil. Đây là một loại trang sức quí giá dành cho phụ nữ từ tuổi trung niên trở lên, loại trang sức này được làm bằng bạc, dát mỏng bề ngoài, bên trong trống rỗng. Mỗi khi thấy các mẹ, các cụ đeo vào tai, dái tai căng xuống, cùng với đôi trang sức Tâng hil lủng lẳng sáng óng ánh dưới ánh mặt trời bên đôi tai của các cụ người Pacô mỗi khi đi làm Tâm mooi (khách) hay trong các dịp lễ hội lớn nhỏ của dân tộc thì trông rất duyên dáng và cổ kính. Theo lời cụ bà Kả Hom ở thôn A Năm, xã Hồng Vân thì:“Khổ nhất là khi giai đoạn đeo rễ tranh, nó ăn vào da thịt vừa đau lại vừa ngứa ngáy khó chịu lắm. Nhưng không thể gãi được vì sợ nó bị sưng tấy, viêm nhiễm. Còn khi giai đoạn căng tai, đeo những vỏ bắp khô nó rất vướng víu bất tiện, nhất là khi đi ngủ. Khổ là thế nhưng vì muốn đẹp thì phải cố gắng chịu đựng thôi!”.
 

Ngày nay, bằng nhiều cách thì nghệ thuật làm đẹp đầy duyên dáng quyến rũ cổ xưa ấy được sống lại trên sân khấu nghệ thuật, trên những trang sách, báo, phim, ảnh của những người con biết yêu quý trân trọng những cái hay cái đẹp của người Pacô. Việc tạo dựng lại những cách làm đẹp này nhằm để quảng bá giới thiệu cho các dân tộc khác hiểu và biết về cách làm đẹp riêng biệt, của một dân tộc riêng biệt. Đồng thời để nhắc lại cho thế hệ trẻ Pacô hiểu và trân trọng một vẻ đẹp độc đáo mà đời trước đã dày công sáng tạo, đã đánh dấu một nét văn hóa riêng có của người Pacô một sự khác biệt với dân tộc anh em khác sinh sống ở dãy Trường Sơn hùng vĩ.

T.N.K.P
(SH277/3-12)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du lừng danh như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng gia phả họ Nguyễn này ở Tiên Điền thì cũng chỉ cho biết vị tổ khải tổ  là cụ Nguyễn Nhiệm (Nhậm), kế tiếp theo trực hệ là Nguyễn Đức Hành (Phương Trạch hầu) , Nguyễn Ôn, Nguyễn Thế, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nghiễm (Xuân Quận công) thân phụ của Nguyễn Du.

  • Văn hóa đình làng từng có một vị trí hết sức quan trọng trong cộng đồng người dân sống ở chốn kinh kỳ Thăng Long - Kẻ Chợ xưa kia. Theo thống kê, ở khu phố cổ hiện nay vẫn còn hơn 60 ngôi đình trong tổng số 112 công trình tôn giáo tín ngưỡng từng có tại đây. Số phận những ngôi đình đó giờ ra sao, trong thời buổi kinh tế “mặt tiền thành tiền mặt”?

  • LÊ THỊ MÂY

    1
    Hơn mười ba năm về trước, kỳ vừa ngưng bom đạn, thường từ sớm chủ nhật, tôi đã về quanh quẩn với phố đổ rậm rì cỏ dại. Nhiều lần đếm đi đếm lại, cũng chỉ còn sót có mười bốn cây dừa, thân bị băm kín miểng bom. Tàn lá xơ xáp, đỏ cháy.

  • PHẠM HỮU THU

    Đầu tháng tư năm nay, tôi mới có dịp trở lại Hải Vân, bởi từ khi có hầm đường bộ, xe cộ ít qua lại con đường đèo quanh co, đầy hiểm nguy nhưng có cảnh quan tuyệt mỹ này.

  • Ngoài một dung lượng văn hóa tộc người đủ thỏa mãn độc giả thì công trình Mọi Kontum(1937) của Nguyễn Kỉnh Chi và Nguyễn Đổng Chi còn là một văn phẩm tạo được sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt. Tham luận góp phần lý giải thành công của tác phẩm trên ba phương diện: Lối khảo tả chân phương mà thấu đạt, trí tuệ sắc bén mà vẫn hồn hậu và văn phong ấn tượng.

  • Chỉ 15 năm, như chớp mắt, hàng loạt các công trình hiện đại đã hùng hổ đẩy những biểu tượng cũ của Sài Gòn đi sâu vào trong quá khứ, biến chúng thành những tiểu cảnh.

  • INRASARA

    Khi mẹ la chị Hám: “Mi không biết hôm nay là ngày gì sao mà hốt thóc trong lẫm đi xay”, thì tôi biết ngay đây là ngày trăng hết harei ia bilan abih, ngày người Cham kiêng xuất hàng ra khỏi nhà.

  • Dù có thể không sinh ra trên mảnh đất này nhưng đã là người Việt Nam ai cũng cảm nhận được một Hà Nội của chúng ta từ sông Hồng đỏ nặng phù sa đến Hồ Gươm lung linh truyền thuyết, Văn miếu - Quốc Tử Giám thâm nghiêm... Và cũng xao xuyến nhận ra một cái gì đó rất Hà Nội, của Hà Nội, từ mùa thu se sẽ lâng lâng đến đêm nồng nàn hoa sữa, cơn mưa tìm về phố cổ với màn sương lan nhẹ mặt Hồ Gươm...

  • Chợ Gôi ở xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh có tự bao giờ? Câu hỏi thật khó và cũng chưa thể có câu trả lời đầy đủ. Mà cái tên nôm “Gôi” còn được dùng  để chỉ địa danh của nhiều nơi khác ở Việt Nam.

  • Vượt chặng đường hơn 50 km về hướng bắc, từ trung tâm thành phố Pleiku - tỉnh Gia Lai chúng tôi tìm đến làng Kon Solal ở xã Hà Tây, huyện Chư Păh - một trong vài ngôi làng nguyên sơ cuối cùng còn lại của đồng bào BaNa.

  • Đó là ngôi làng dưới chân núi Chư Mom Ray nhiều huyền thoại. Điều kỳ lạ là cả đứa trẻ 10 tuổi cũng nói được nhiều thứ tiếng, không chỉ tiếng của dân tộc khác, mà họ còn nói được tiếng Lào, Miên và những đứa trẻ được đi học thì tiếng Anh cũng không phải là ngoại lệ.

  • “Thất bại trước quân Triệu Đà tại Cổ Loa của An Dương Vương dẫn đến 1.000 năm Bắc thuộc là nỗi đau lớn của dân tộc Việt. Nhưng Cổ Loa không chỉ ghi dấu thất bại thiên thu. Mà đó còn là nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô ngay khi đại phá quân Nam Hán năm 938, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của nước việt với triều đình phương Bắc. Và điều này đang bị lãng quên...”.

  • Chùa Tiêu Sơn (thường gọi là chùa Tiêu) - một danh thắng nổi tiếng và cũng là - trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.

  • Đền Quả Sơn ở Bạch Ngọc nay là xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương thờ Lý Nhật Quang. Ngài là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được phong tước Uy Minh vương. Mùa xuân năm 1902, Nguyễn Sinh Cung  trên nẻo đường theo cha đi dạy học, thăm thú quê hương có đến chiêm bái đền Quả Sơn - một trong bốn ngôi đền linh thiêng nhất của tỉnh Nghệ.

  • Hát ví Sông La (tên gọi một làn điệu ví của Xứ Nghệ; cũng có thể hiểu là điệu ví ở sông La) tham luận này đề cập giới hạn những điệu ví ra đời, tồn tạị, phát triển ở vùng sông La, miền Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

  • Chùa Nền, phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1116–1138), bài trí thờ Phật và song thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh là ngài Từ Vinh và bà Tằng Thị Loan.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Những năm cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, ngành Dân tộc học Việt Nam nói chung và miền Trung Tây Nguyên nói riêng được các nhà khoa học, chính trị, bác sĩ của Pháp tiến hành nghiên cứu và công bố nhiều tác phẩm có giá trị.

  • (SHO) Cứ hễ nhắc tới miền Trung, mỗi người Việt Nam có thể mường tượng ngay ra trong đầu những vùng đất của thiên tai triền miên. Miền đất, nơi mà từ tấm bé cho tới khi lìa đời dường như đều gắn với con chữ nghèo và sớm sương mưa nắng lận đận mưu sinh.

  • (SHO) Vậy là tôi đã ở Miền Tây mênh mang sông nước! Tôi đã đặt chân lên bến Ninh Kiều Cần Thơ và ấp Mũi Cà Mau! Tôi đã đi tàu ca nô trên những con kênh, con lạch mà hai bên bờ mọc đầy những cây đước, cây tràm…

  • Huế xưa – nay, Huế của khúc ruột nước non, chứa đựng trong mình cả một bề dày lịch sử thông qua nét trầm mặc cổ kính của những lăng tẩm, cung điện, chùa chiền… Nhưng có lẽ ít ai biết, Huế vẫn còn ẩn chứa trong mình một A Lưới - vùng đất nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và trầm lắng nhiều giá trị văn hoá cổ xưa của cộng đồng các dân tộc thiểu số.