Bụi Cây

09:46 22/05/2008
Maisa thích những cái cây đó dù cô không biết chúng tên gì và cũng không tính xem chúng có bao nhiêu nữa. Các thân cây quyện vào nhau rồi lại tách ra, tán lá xoè xuống trải rộng trên mặt đất, những cái lá hình nón xào xạc trong cơn gió chiều.

Vào mùa thu, khi những đợt gió ùa về, bụi cây trơ trụi vẫy vùng trong cái ẩm ướt của những cơn mưa thu. Nhưng khi tháng hai đến, cành cây dường như chuyển mình kêu rắc rắc trong tuyết lạnh như hứa hẹn sự hồi sinh sau giấc ngủ dài.
Vào những đêm hè khi đứa bé đã say giấc nồng, cô thường lắng nghe tiếng chim ca vang lên từ chỗ những cành cây rậm rạp, tiếng những chú chuột đồng đi ăn đêm đùa giỡn giữa những thân cây và cả tiếng rễ cây đâm mình vào sâu trong lòng đất. Khi nhắm mắt lại, cô vẫn mường tượng ra tiếng nhựa sống chuyển động dưới lớp vỏ cây. Cô run rẩy thấy mình vẫn bồi hồi khi nhớ lại kỷ niệm xưa.
Maisa vừa định rời bàn thì thấy một người đàn ông đứng dưới của sổ, ông có bộ ria mép quặp xuống, cái áo ấm da dường như quá chật với ông, còn đôi ủng thì lại quá cỡ. Ông cầm cái cưa máy với vẻ bồn chồn như thể đang cầm quả bom vậy.
Theo sau ông ta là một người đàn bà với làn da sạm nắng dù giờ chỉ mới cuối tháng năm, bà cầm cái cào chỉ trỏ lung tung. Nghểnh cổ lên, cô mới thấy điều gì đang xảy ra: đằng sau người đàn bà còn có bảy, tám người nữa, cả đàn ông lẫn đàn bà, đang đẩy xe kút kít, tay mang xuổng và một đám trẻ con hiếu kỳ.
Maisa nhận ra người láng giềng của cô và nhớ đến mẩu thông báo được đóng khung bằng những dấu chấm than trên bản tin ở hành lang “Lao động tập thể! Đề nghị mọi người tham gia!”.
Nhóm người dừng lại dưới cửa sổ nhà bếp của cô và đứng nhìn vào lùm cây. Maisa có thể nghe thấy tiếng tíc tắc của cái đồng hồ treo tường, tiếng ngáy của đứa bé vang lên từ vách bên kia. Cô mở hé cửa sổ, lắng nghe người đàn bà da sạm nắng nói: “Nào ta bắt đầu làm việc thôi.”
Người đàn bà vung vẩy cánh tay như cánh quạt trong máy sấy, còn người đàn ông thì múa cái cưa máy đến những nhánh cây thấp nhất và bắt đầu tỉa từ dưới lên, tách bỏ các thân cây nhỏ rồi tiến đến những cái cây kế đó. Ông làm một cách nhịp nhàng, không nghỉ mãi cho đến khi chặt hết những thứ vướng víu làm cho bụi cây trở nên quang đãng.
Miệng Maisa bật ra một nụ cười, tiếng cười vang lên từ thẳm sâu trong lồng ngực cô nhưng lại tắc nghẽn nơi cổ họng. Cô lật đật mở cửa sổ, chồm người ra:
“Này, mấy người làm gì thế?”
Giọng cô vang lên the thé, méo mó. Người đàn ông cầm cưa máy liếc nhìn lên, rồi những người khác. Có người còn nhăn nhó mặt mày trêu cô.
“Chúng tôi chỉ tỉa bớt cái đống này thôi mà.” Người đàn bà da bánh mật vừa rống lên vừa đá những nhánh cây sang một bên.
“Ai... ai cho phép mấy người...”
Có lần trong mơ, cô thấy ai đó trùm cái bao nhựa lên đầu cô, hơi thở cô bám rít vào da mặt. Khi tỉnh dậy, mặt cô đầm đìa mồ hôi. Giờ cũng vậy, gò má cô nóng bỏng, nhức nhối. Cơn đau nhói lên ở nơi xương sống.
“Chúng tôi cùng hội ý với nhau và quyết định đấy.”
Người đàn ông đeo kính bước lên trước, nói bằng giọng trầm tĩnh: “Bụi cây này bắt đầu mọc lan ra, trông không có thẩm mỹ tý nào cả. Chính cô cũng thấy đấy thôi. Chúng mọc san sát nhau làm cản trở sự sinh trưởng của các loài khác. Khoảng đất đằng kia không nhận được tý ánh sáng nào cả. Cái đống cây rối bù này đã hút hết các chất dinh dưỡng trong đất nên không có thứ gì khác mọc lên được”.
“Đi mà giữ lấy mấy cái hoa chết tiệt của ông đi.” - Maisa gào lên.
Bọn trẻ bụm miệng cười khúc khích.
“Im đi cho bọn này nhờ.” - Tiếng ai đó la lên.
“Đây là một quyết định dân chủ. Cô chỉ nên mở miệng khi được phép thôi.”
“Tại sao cô không tham gia với chúng tôi mà đứng đó lải nhải chứ?” - giọng người đàn bà đứng kế bên ông đeo kính. Tiếng trẻ nít vang lên: “Nếu bà không im đi, bọn tôi sẽ cắt hết chỗ còn lại cho mà xem.”
“Mẹ!” - thằng bé sợ hãi thét lên từ phòng nó.
Maisa vội rụt đầu lại, cô đóng cửa sổ và kéo màn.
“M...ẹ!”
Có sự hoảng hốt trong giọng thằng bé. Maisa đến bên nó, vuốt tóc dỗ dành nó, cô khe khẽ hát và xoa gáy cho nó mãi cho đến khi nhịp thở của nó trở lại đều đều.
“Con ngủ có say không, con yêu?” cô nói.
Mọi vật nhảy múa trước mắt cô, đầu cô bắt đầu nặng dần. Thằng bé đứng dậy, đi xuống nhà bếp rót nước uống ừng ực. Rồi nó ngồi lên ghế bành đòi xem nốt đoạn phim còn lại, cô nghĩ tại sao lại không chứ và bật video lên, con trai cô sẽ dán mắt vào bộ phim còn cô sẽ ngồi thêu bên nó.
Trên giường của con trai cô có một khung ảnh. Ảnh chụp lúc nó còn bé, nằm trần như nhộng trên giường, đầu đội mũ Giáng Sinh. Cha nó nằm bên nó, nịt lệch sang một bên, nhìn con trai trong nụ cười toe toét. Cô mặc bộ đầm xanh đứng trong góc bức ảnh mỉm cười nhìn thẳng về phía máy ảnh.
“Giáng Sinh tới chúng ta có thể đi gặp Ông Già Nô-en được rồi.” - cha thằng bé cười to, tung nó lên không.
Nhưng đã nhiều mùa đông trôi qua mà điều này vẫn chưa xảy ra.
Cô bỏ băng video vào máy rồi đi đến cánh cửa sổ và nhìn xuyên qua khe hở trên tấm màn. Dấu vết của buổi lao động đã được dọn sạch, ai đó vẫn còn đang cào các nhành cây. Bụi cây còn lại đang đong đưa trong gió. Giờ thì cô có thể phóng tầm mắt ra xa tít, nơi có con đường dài chạy qua. Cô nhìn mãi cho đến khi thấy mỏi mắt.
NGUYỄN THỊ HỒNG MINH dịch

SARI MALKAMKI (Phần Lan)
(nguồn: TCSH số 149 - 07 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.

  • BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.

  • AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.

  • AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.

  • Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…

  • Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.

  • HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

  • SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.

  • KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết  truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.

  • FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.

  • MIKHAIN SÔLÔKHỐP                Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.

  • KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.

  • ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

  • GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.

  • GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.

  • JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.

  • SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.

  • DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?