JOSEPHIN JOHNSON
(Mỹ)
Gnark ngồi trong buồng ngủ, mắt nhìn những tấm giấy phủ tường. Một cảm giác là lạ xâm chiếm lòng anh.
Minh họa: Nguyễn Duy Linh
Hai vợ chồng anh đã ngủ trong căn phòng này suốt cuộc hôn nhân của họ, thế mà từ trước tới giờ, anh chưa bao giờ thực sự nhìn thấy những bức tường này. Anh đã bị mù. Nhưng bây giờ thì anh có thể nhìn thấy được rồi. Anh đứng dậy, bước lại gần bức tường. Anh đưa tay sờ lên những tấm giấy, sờ lên những bông hoa đỏ li ti và những chiếc lá xanh in trên đó. Những màu sắc đã cũ kỹ, ố vàng.
Gnark mới có lại thị lực hồi sáng nay. Khi đó, anh mở mắt và thấy nó - ánh sáng. Cái ánh sáng mà đã bao năm rồi anh không được thấy. Lúc đầu ánh sáng như bị nhòe, rồi sau đó anh mới thấy những hình bóng lờ mờ, và cuối cùng, mọi vật trở nên sáng rỡ và sắc nét. Thế là chỉ việc ngồi đó và nhìn tất cả mọi vật xung quanh. Vợ và con anh đã phát khóc khi anh báo cái tin ấy cho hai mẹ con nàng. Gnark nói với họ tất cả những gì họ thích nghe. Với cậu con trai, anh nói:
- Con đã cao lớn rồi, cao như cái cây kia. Bây giờ con đã đúng như là một người đàn ông thực sự. Ba rất vui mừng được nhìn thấy con, nhìn thấy nụ cười của con.
Nhưng nói với vợ anh thì không dễ như thế.
- Em vẫn như hồi trước, vẫn y như hồi trước.
Đấy là một lời nói dối nhưng anh vẫn cứ tiếp tục nói. Nó giúp anh che giấu cảm xúc của mình khi nhìn thấy khuôn mặt hốc hác, đã già đi nhiều của vợ. Lina chưa bao giờ xinh đẹp cả, nhưng nụ cười nồng ấm của nàng luôn khiến cho vẻ mặt của nàng có nét gì đó dễ thương. Giờ đây, nỗi cực nhọc chăm sóc một người mù đã thể hiện trên nét mặt nàng. Nàng trông đầy mệt mỏi.
Gnark chợt bỗng muốn chạy ào ra ngoài làm một việc gì đó, để bù đắp cho nàng tất cả những năm tháng nhọc nhằn đã qua. Sau một lúc, Lina và con ra đi, còn một mình Gnark ngồi lại và suy nghĩ về quá khứ. Bây giờ mọi cái sẽ phải đổi thay, vì anh đã lại sáng mắt rồi.
Buổi chiều, Gnark cảm thấy mệt mỏi. Anh vừa ngồi nghỉ vừa nhìn những tấm giấy phủ tường cũ kỹ, bắt đầu suy tính xem liệu có thể khởi đầu từ chỗ trước kia anh đã phải dừng lại hay không. Họ không còn nhiều tiền nữa và Lina đã tính đến chuyện bán trang trại. Nhưng bây giờ thì điều đó sẽ không cần thiết nữa, vì anh có thể làm được việc rồi. Cùng với sự giúp đỡ của cậu con trai, họ sẽ giữ được trang trại. Những ý tưởng bắt đầu hình thành trong trí anh và anh nghĩ tới tương lai. Lại được làm việc, cái ý nghĩ ấy làm anh phấn chấn hẳn lên. Cuối cùng, Gnark cảm thấy đủ can đảm bước chân ra ngoài. Anh tự hỏi không biết ngoài kia đã có những thay đổi gì. Lina có vẻ lo lắng:
- Anh cẩn thận đấy nhé, nàng bảo, bác sĩ nói phải nghỉ ngơi yên tĩnh.
- Ồ em, anh sẽ không sao cả đâu, Gnark đáp rồi rời nhà.
Thoạt đầu, ánh sáng ban ngày làm anh nhức mắt. Anh nhắm mắt lại vài phút rồi mới từ từ mở mắt ra và bắt đầu đi chầm chậm về phía dòng sông.
Đến nơi, anh ngồi xuống một cái cây đổ và nhìn quanh. Anh thấy quả đồi của trang trại và thấy bao nhiêu công việc sẽ phải làm. Anh bắt đầu vạch ra những kế hoạch.
Hôm ấy là một ngày cuối tháng Tư, vẫn còn lạnh giá, nhưng Gnark cứ ngồi say sưa nhìn ngắm và sắp đặt những kế hoạch. Anh thấy dòng sông đục ngầu chảy quanh co. Anh thấy những quả đồi đỏ tía vươn lên bầu trời. Anh thấy những cây sồi giờ đây đã cao to hơn trước, đứng dọc bờ sông, phủ đầy hoa trắng xóa. Anh thấy những con chim sẻ đậu xuống cánh đồng của mình. Đã từ lâu, anh quên bẵng đi rằng chúng rất duyên dáng.
Gnark chợt có ý nghĩ thôi thúc muốn ra ngay cánh đồng kia mà làm lụng. Nhưng cảm giác ấy nhanh chóng biến mất, anh cảm thấy thư thái. Anh tận hưởng cái gì hạnh phúc yên ả là được nhìn. Giờ thì chẳng còn gì để cản trở nổi ta, anh nghĩ. Anh sẽ tạo dựng mảnh đất này thành một trang trại tuyệt đẹp như xưa.
Anh vẫn tiếp tục suy tính, sắp xếp lại những gì phải làm trước tiên. Trước đây, khi bị mù, suy nghĩ của anh cũng mù lòa theo, anh nhìn xuống bàn tay mình. Bàn tay trắng nhợt, gầy gò và yếu ớt. Anh phải dạy chúng làm việc trở lại.
Một lúc sau, Gnark đứng lên và bắt đầu đi về nhà. Bây giờ vì suy nghĩ của anh đã mạch lạc, anh đã có một kế hoạch, anh muốn nói với vợ con anh. Thế rồi chỉ vì muốn cảm giác tự do mà anh nhung nhớ đã bao lâu, anh bắt đầu chạy, vừa chạy vừa mỉm cười và trò chuyện vui vẻ với chính mình. Anh hết sức phấn chấn vì mình có thể chạy nhanh đến như thế mà không cần bất cứ sự giúp đỡ nào. Thật tuyệt vời biết bao, có thể tự mình đi được! Anh suýt giẫm phải một con cóc nhảy vào giữa hai chân anh.
- Nhảy đi đâu cũng được mà, chú cóc! Anh hét to và phá lên cười. Anh cười với bầu trời, với hàng cây, với cả thế giới này.
Và chính anh lúc đó, anh bỗng nhận thấy một sự đổi thay nào đó.
Một bức màn màu xám chầm chậm rơi xuống, phủ lên dòng sông và thung lũng. Anh đứng lặng người đi, và cố hết sức mở mắt thật to. Bức màn kia vẫn tiếp tục buông xuống, giờ đã phủ lên những cây sồi, cho đến khi chúng biến thành những cái bóng cao to đen sẫm. Gnark nhắm mắt lại và lấy hai tay bịt mắt. Anh hy vọng, hy vọng. Nhưng khi anh mở mắt ra, vẫn là bóng tối. Một màn sương dày đen thẫm vẫn còn nguyên ở đấy. Giống y như sự việc đã xảy ra cách đây năm năm về trước. Anh còn nhớ rõ lắm mà. Phút trước anh còn nhìn được, phút sau một màn sương đen đã phủ lấp ánh sáng. Rồi anh thấy màn sương kia mỗi lúc một dày thêm. Trước tiên là những quả đồi tía, rồi đến rặng sồi phủ trắng hoa dần dần chìm mất. Rồi Gnark thấy cả cánh đồng và ngôi nhà cũng không còn nữa. Một nỗi hoảng sợ khủng khiếp cuộn lên trong anh. Anh vung nắm tay vào không khí, cố đẩy cái bóng tối kia đi.
- Không, xin đừng, anh kêu lên, đừng lại một lần như thế nữa.
Anh đập hai tay vào nhau trong cơn giận dữ tuyệt vọng. Còn những hình bóng lờ mờ xung quanh anh thì cứ ngày một đen thẫm hơn.
- Hãy thôi đừng bắt tôi phải khóc, hãy thôi những đau khổ, hãy cho tôi một cơ hội. Xin hãy giữ bóng tối kia lại!
Gnark hướng lên trời và nài xin. Nhưng nó vẫn cứ đến. Chậm chạp và nặng nề, bóng tối lớn dần thêm. Anh vẫn còn có thể nghe tiếng dòng sông chảy, nhưng anh đã không nhìn thấy nó được nữa. Và anh bắt đầu chạy, để cố bỏ bóng tối lại sau lưng. Đang chạy, anh vấp phải một cái cây. Anh đứng dậy, và lại chạy. Anh không cảm thấy đau đớn gì nữa, chỉ cảm thấy lạnh ghê gớm và một nỗi hãi hùng.
Rồi đột nhiên anh thôi không chạy nữa. Anh đưa tay ra và sờ vào thân cây ram ráp, xù xì. Anh vòng tay ôm lấy thân cây, và bắt đầu cười vang. Anh cười một lúc lâu và rất to. Ta là thằng ngốc, anh nghĩ, một thằng ngốc già yếu bóng vía. Có gì mà phải lo lắng. Đấy là đêm. Đêm đang xuống. Anh đã quên mất đêm. Đúng thế rồi, chính vì thế mà trời tối, ban đêm bao giờ mà trời chẳng tối, trong năm năm mù lòa, anh đã quên mất điều ấy. Và vào tháng Tư, đêm xuống thung lũng sớm hơn.
Gnark ngồi xuống gốc cây, mệt lử vì cười. Anh sẽ kể cho vợ con nghe, hai mẹ con sẽ cùng cười với anh.
Dĩ nhiên không phải là anh lại mù một lần nữa. Trong một đời người, điều đó không thể xảy ra hai lần.
Anh ngả đầu vào thân cây và lại mỉm cười.
Mặt trời chiều tà chiếu đỏ lên những giọt nước mắt chảy xuống má anh.
NGUYỄN THỊ HẠNH dịch
(Từ "Truyện ngắn Mỹ”)
(TCSH56/07&8-1993)
George Saunders - Franz Kafka
Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
Dương Đức dịch và giới thiệu
Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.
AMOS OZ
Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.
ALBERTO MORAVIA
KATHERINE MANSFIELD (Anh)
Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.
Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).
Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.
MARK TWAIN
M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.
L. TOLSTOY
Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).
VẠN CHI (Trung Quốc)
Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.
Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.
Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.
SAKI
1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.
Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.
Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.
NAGUIB MAHFOUZ
Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.
Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.
Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.
Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp.
FRANZ KAFKA