Bóng tối

08:20 26/01/2024

JOSEPHIN JOHNSON
                   (Mỹ)

Gnark ngồi trong buồng ngủ, mắt nhìn những tấm giấy phủ tường. Một cảm giác là lạ xâm chiếm lòng anh.

Minh họa: Nguyễn Duy Linh

Hai vợ chồng anh đã ngủ trong căn phòng này suốt cuộc hôn nhân của họ, thế mà từ trước tới giờ, anh chưa bao giờ thực sự nhìn thấy những bức tường này. Anh đã bị mù. Nhưng bây giờ thì anh có thể nhìn thấy được rồi. Anh đứng dậy, bước lại gần bức tường. Anh đưa tay sờ lên những tấm giấy, sờ lên những bông hoa đỏ li ti và những chiếc lá xanh in trên đó. Những màu sắc đã cũ kỹ, ố vàng.

Gnark mới có lại thị lực hồi sáng nay. Khi đó, anh mở mắt và thấy nó - ánh sáng. Cái ánh sáng mà đã bao năm rồi anh không được thấy. Lúc đầu ánh sáng như bị nhòe, rồi sau đó anh mới thấy những hình bóng lờ mờ, và cuối cùng, mọi vật trở nên sáng rỡ và sắc nét. Thế là chỉ việc ngồi đó và nhìn tất cả mọi vật xung quanh. Vợ và con anh đã phát khóc khi anh báo cái tin ấy cho hai mẹ con nàng. Gnark nói với họ tất cả những gì họ thích nghe. Với cậu con trai, anh nói:

- Con đã cao lớn rồi, cao như cái cây kia. Bây giờ con đã đúng như là một người đàn ông thực sự. Ba rất vui mừng được nhìn thấy con, nhìn thấy nụ cười của con.

Nhưng nói với vợ anh thì không dễ như thế.

- Em vẫn như hồi trước, vẫn y như hồi trước.

Đấy là một lời nói dối nhưng anh vẫn cứ tiếp tục nói. Nó giúp anh che giấu cảm xúc của mình khi nhìn thấy khuôn mặt hốc hác, đã già đi nhiều của vợ. Lina chưa bao giờ xinh đẹp cả, nhưng nụ cười nồng ấm của nàng luôn khiến cho vẻ mặt của nàng có nét gì đó dễ thương. Giờ đây, nỗi cực nhọc chăm sóc một người mù đã thể hiện trên nét mặt nàng. Nàng trông đầy mệt mỏi.

Gnark chợt bỗng muốn chạy ào ra ngoài làm một việc gì đó, để bù đắp cho nàng tất cả những năm tháng nhọc nhằn đã qua. Sau một lúc, Lina và con ra đi, còn một mình Gnark ngồi lại và suy nghĩ về quá khứ. Bây giờ mọi cái sẽ phải đổi thay, vì anh đã lại sáng mắt rồi.

Buổi chiều, Gnark cảm thấy mệt mỏi. Anh vừa ngồi nghỉ vừa nhìn những tấm giấy phủ tường cũ kỹ, bắt đầu suy tính xem liệu có thể khởi đầu từ chỗ trước kia anh đã phải dừng lại hay không. Họ không còn nhiều tiền nữa và Lina đã tính đến chuyện bán trang trại. Nhưng bây giờ thì điều đó sẽ không cần thiết nữa, vì anh có thể làm được việc rồi. Cùng với sự giúp đỡ của cậu con trai, họ sẽ giữ được trang trại. Những ý tưởng bắt đầu hình thành trong trí anh và anh nghĩ tới tương lai. Lại được làm việc, cái ý nghĩ ấy làm anh phấn chấn hẳn lên. Cuối cùng, Gnark cảm thấy đủ can đảm bước chân ra ngoài. Anh tự hỏi không biết ngoài kia đã có những thay đổi gì. Lina có vẻ lo lắng:

- Anh cẩn thận đấy nhé, nàng bảo, bác sĩ nói phải nghỉ ngơi yên tĩnh.

- Ồ em, anh sẽ không sao cả đâu, Gnark đáp rồi rời nhà.

Thoạt đầu, ánh sáng ban ngày làm anh nhức mắt. Anh nhắm mắt lại vài phút rồi mới từ từ mở mắt ra và bắt đầu đi chầm chậm về phía dòng sông.

Đến nơi, anh ngồi xuống một cái cây đổ và nhìn quanh. Anh thấy quả đồi của trang trại và thấy bao nhiêu công việc sẽ phải làm. Anh bắt đầu vạch ra những kế hoạch.

Hôm ấy là một ngày cuối tháng Tư, vẫn còn lạnh giá, nhưng Gnark cứ ngồi say sưa nhìn ngắm và sắp đặt những kế hoạch. Anh thấy dòng sông đục ngầu chảy quanh co. Anh thấy những quả đồi đỏ tía vươn lên bầu trời. Anh thấy những cây sồi giờ đây đã cao to hơn trước, đứng dọc bờ sông, phủ đầy hoa trắng xóa. Anh thấy những con chim sẻ đậu xuống cánh đồng của mình. Đã từ lâu, anh quên bẵng đi rằng chúng rất duyên dáng.

Gnark chợt có ý nghĩ thôi thúc muốn ra ngay cánh đồng kia mà làm lụng. Nhưng cảm giác ấy nhanh chóng biến mất, anh cảm thấy thư thái. Anh tận hưởng cái gì hạnh phúc yên ả là được nhìn. Giờ thì chẳng còn gì để cản trở nổi ta, anh nghĩ. Anh sẽ tạo dựng mảnh đất này thành một trang trại tuyệt đẹp như xưa.

Anh vẫn tiếp tục suy tính, sắp xếp lại những gì phải làm trước tiên. Trước đây, khi bị mù, suy nghĩ của anh cũng mù lòa theo, anh nhìn xuống bàn tay mình. Bàn tay trắng nhợt, gầy gò và yếu ớt. Anh phải dạy chúng làm việc trở lại.

Một lúc sau, Gnark đứng lên và bắt đầu đi về nhà. Bây giờ vì suy nghĩ của anh đã mạch lạc, anh đã có một kế hoạch, anh muốn nói với vợ con anh. Thế rồi chỉ vì muốn cảm giác tự do mà anh nhung nhớ đã bao lâu, anh bắt đầu chạy, vừa chạy vừa mỉm cười và trò chuyện vui vẻ với chính mình. Anh hết sức phấn chấn vì mình có thể chạy nhanh đến như thế mà không cần bất cứ sự giúp đỡ nào. Thật tuyệt vời biết bao, có thể tự mình đi được! Anh suýt giẫm phải một con cóc nhảy vào giữa hai chân anh.

- Nhảy đi đâu cũng được mà, chú cóc! Anh hét to và phá lên cười. Anh cười với bầu trời, với hàng cây, với cả thế giới này.

Và chính anh lúc đó, anh bỗng nhận thấy một sự đổi thay nào đó.

Một bức màn màu xám chầm chậm rơi xuống, phủ lên dòng sông và thung lũng. Anh đứng lặng người đi, và cố hết sức mở mắt thật to. Bức màn kia vẫn tiếp tục buông xuống, giờ đã phủ lên những cây sồi, cho đến khi chúng biến thành những cái bóng cao to đen sẫm. Gnark nhắm mắt lại và lấy hai tay bịt mắt. Anh hy vọng, hy vọng. Nhưng khi anh mở mắt ra, vẫn là bóng tối. Một màn sương dày đen thẫm vẫn còn nguyên ở đấy. Giống y như sự việc đã xảy ra cách đây năm năm về trước. Anh còn nhớ rõ lắm mà. Phút trước anh còn nhìn được, phút sau một màn sương đen đã phủ lấp ánh sáng. Rồi anh thấy màn sương kia mỗi lúc một dày thêm. Trước tiên là những quả đồi tía, rồi đến rặng sồi phủ trắng hoa dần dần chìm mất. Rồi Gnark thấy cả cánh đồng và ngôi nhà cũng không còn nữa. Một nỗi hoảng sợ khủng khiếp cuộn lên trong anh. Anh vung nắm tay vào không khí, cố đẩy cái bóng tối kia đi.

- Không, xin đừng, anh kêu lên, đừng lại một lần như thế nữa.

Anh đập hai tay vào nhau trong cơn giận dữ tuyệt vọng. Còn những hình bóng lờ mờ xung quanh anh thì cứ ngày một đen thẫm hơn.

- Hãy thôi đừng bắt tôi phải khóc, hãy thôi những đau khổ, hãy cho tôi một cơ hội. Xin hãy giữ bóng tối kia lại!

Gnark hướng lên trời và nài xin. Nhưng nó vẫn cứ đến. Chậm chạp và nặng nề, bóng tối lớn dần thêm. Anh vẫn còn có thể nghe tiếng dòng sông chảy, nhưng anh đã không nhìn thấy nó được nữa. Và anh bắt đầu chạy, để cố bỏ bóng tối lại sau lưng. Đang chạy, anh vấp phải một cái cây. Anh đứng dậy, và lại chạy. Anh không cảm thấy đau đớn gì nữa, chỉ cảm thấy lạnh ghê gớm và một nỗi hãi hùng.

Rồi đột nhiên anh thôi không chạy nữa. Anh đưa tay ra và sờ vào thân cây ram ráp, xù xì. Anh vòng tay ôm lấy thân cây, và bắt đầu cười vang. Anh cười một lúc lâu và rất to. Ta là thằng ngốc, anh nghĩ, một thằng ngốc già yếu bóng vía. Có gì mà phải lo lắng. Đấy là đêm. Đêm đang xuống. Anh đã quên mất đêm. Đúng thế rồi, chính vì thế mà trời tối, ban đêm bao giờ mà trời chẳng tối, trong năm năm mù lòa, anh đã quên mất điều ấy. Và vào tháng Tư, đêm xuống thung lũng sớm hơn.

Gnark ngồi xuống gốc cây, mệt lử vì cười. Anh sẽ kể cho vợ con nghe, hai mẹ con sẽ cùng cười với anh.

Dĩ nhiên không phải là anh lại mù một lần nữa. Trong một đời người, điều đó không thể xảy ra hai lần.

Anh ngả đầu vào thân cây và lại mỉm cười.

Mặt trời chiều tà chiếu đỏ lên những giọt nước mắt chảy xuống má anh.

NGUYỄN THỊ HẠNH dịch
(Từ "Truyện ngắn Mỹ”)
(TCSH56/07&8-1993)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.

  • AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.

  • Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…

  • Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.

  • HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

  • SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.

  • KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết  truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.

  • FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.

  • MIKHAIN SÔLÔKHỐP                Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.

  • KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.

  • ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

  • GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.

  • GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.

  • JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.

  • SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.

  • DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.