NGÔ THÚY NGA
1.
Làng yên bình gối đầu lên chân một mỏm núi mà thở nhẹ nhàng. Làng cười nhẹ như gió bên nhánh sông thầm thì lời bìm bịp gọi nhau. Làng tôi đấy! Có núi, có sông, có cánh đồng mà đàn cò dang cánh, rộng thênh thang. Có tuổi thơ của chị em tôi và những chị em khác nữa.
Minh họa: Nhím
Người ta nói miền Trung như cái đòn gánh, quảy trên lưng hai đầu của đất nước. Đòn gánh cong oằn vì nặng, vì nắng mưa. Cái nắng như cào xé, thiêu đốt làng tôi bằng những trận gió Lào nóng như ngậm lửa. Cái rét - người ta không gọi là lạnh, vì nó không đủ sức diễn - như cứa vào thịt da, nhức nhối cả mùa đông.
2.
Ngôi nhà của mẹ con cụ Nhờ sát bên sông. Chẳng ai biết ông Nhờ ở đâu. Cụ Nhờ một mình lủi thủi nuôi con. Giờ anh Cu đã lớn, mà còn học rất giỏi nữa. Cụ Nhờ tự hào về anh Cu lắm. Thực ra anh có cái tên rất đẹp: Xuân Hào. Nhưng mọi người trong làng đều gọi là anh Cu. Anh tốt bụng và nhiệt tình. Ai nhờ lợp cái nhà, hay rào cái vườn rau anh Cu đều hăng hái làm giúp. Cụ Nhờ thấy thế thì vui lắm. Hai mẹ con dựa vào nhau mà sống. Cả làng ai cũng thương hai mẹ con cụ. Lâu lâu lại có người kêu: “Cụ Nhờ ơi cho tui mượn anh Cu một lúc, cụ Nhờ ơi tui biếu cụ bó rau, con cá…”. Chị em tôi cũng hay chạy đến chơi nhà cụ. Cụ hay cất dành cho chúng tôi củ khoai nướng, cái bắp luộc và những củ lạc đầu mùa béo ngậy.
3.
Cụ Nhờ quý chị tôi lắm. Cụ luôn gọi chị là con. Anh Cu cũng quý chị. Chị hiền lành, ít nói, suốt ngày chỉ thấy chị cười hiền, chẳng khi nào chị biết to tiếng với ai. Mà chị đảm đang nữa. Chị nấu ăn ngon. Khâu vá, thêu thùa gì chị cũng biết. Chị mang nét đẹp của cả người phụ nữ truyền thống và hiện đại. Chị lãng mạn. Nhưng chị cũng trong suốt như hạt mưa, dễ vỡ, dễ tổn thương. Một cảnh hoàng hôn chiều cũng làm chị đứng ngây người. Một cánh hoa rừng cũng làm chị thảng thốt. Và… một cái gì đó bất chợt cũng có thể làm nước mắt chị rơi. Trên đời này, tôi chưa thấy ai mau nước mắt như chị. Chị thánh thiện như một thiên sứ mang bình yên. Tôi yêu chị nhưng cũng lo cho chị. Chị quá yếu đuối. Chị cần được che chở. Chị như hạt mưa, chạm tay vào là vỡ tan. Và chị quá kín đáo. Dường như chị chỉ biết giữ tất cả trong lòng. Chẳng khi nào chị tâm sự với ai. Chị cũng chẳng có một người bạn nào ngoài tôi với mẹ con cụ Nhờ.
4.
Anh Cu dạy chữ cho chị. Chị dạy lại cho tôi. Anh Cu cũng cho chị em tôi nhiều sách vở. Tối nay chị dạy tôi, nhưng tôi cảm nhận được chị không tập trung. Chị cứ mơ màng, mắt nhìn ra cửa sổ. Tôi hỏi mà chị cũng chẳng biết. Tôi lắc tay mạnh. Chị giật mình. Tự nhiên trong tôi có cảm giác lo sợ sẽ có điều gì xẩy ra. Có lẽ, tôi sắp mất chị. Chị đang yêu đấy. Rồi chị sẽ đi lấy chồng. Tôi thành “mồ côi”. Mồ côi cha mẹ, và sắp mồ côi luôn cả chị. Chiều nay chị với anh Cu ra hái bèo ngoài bờ sông. Và tôi biết anh Cu lại hái hoàng hôn cho chị. Lúc về nhà, tôi đọc được niềm hạnh phúc trong mắt chị. Đôi mắt chị cười, long lanh, và thú thật là tôi say luôn ánh mắt chị. Nếu chị không phải là chị tôi, nhất định tôi sẽ yêu chị. Sẽ tranh chị với anh Cu cho tới cùng. Nhưng… nhưng tôi vẫn yêu chị. Thực ra tôi cũng muốn anh Cu yêu chị. Nhưng mà… tôi sợ. Tôi sợ mất chị. Tôi sợ chị sẽ không yêu tôi nhiều nữa. Nhưng mà… nhưng mà chị đã hai mươi ba. Chị đã là thiếu nữ. Và chị sẽ đi lấy chồng.
5.
Dạo này mưa nhiều. Ngày nào trời cũng mưa, có khi rả rích cả ngày. Chiều nay, cơn giông lại ập đến. Mưa như roi quất vào người. Chớp nhoáng đuổi nhau ngùng ngoằng. Cả sấm. Sấm ầm ầm. Mưa cứ như trút nước. Gió lớn. Gió rít lên từng cơn như đang đánh nhau với mưa. Hôm nay anh Cu lên huyện, cụ Nhờ lại gọi hai chị em tôi đến ăn cơm cùng. Trưa. Đang ăn cơm, bỗng dưng một con chim bồ câu từ trên chuồng rơi xuống sân, đập đập cánh vài cái rồi nằm đơ. Chị em tôi chạy ra thì con chim đã chết. Tôi đưa vào cho cụ Nhờ xem, cụ không nói gì, nhưng hình như sắc mặt cụ biến đổi. Tôi hỏi cụ làm sao, cụ lắc đầu không nói.
Mưa vẫn chưa ngớt. Ba bà cháu sốt cả ruột. Không biết sao giờ này anh Cu vẫn chưa về? Lúc sáng anh Cu bảo phải lên huyện xin giấy tờ gì đấy. Ba bà cháu cứ đi đi lại lại, điện thì không có. Được cái đèn dầu gió cũng thổi tắt ngúm. Ban ngày mà tối thui. Không ai nói với ai câu gì. Chị nắm tay cụ Nhờ thật chặt. Tôi biết chị đang bảo cụ cứ yên tâm, tạnh mưa anh Cu sẽ về. Ba bà cháu tôi, mỗi người theo đuổi một suy nghĩ riêng, làm căn nhà bé nhỏ của cụ thêm u uẩn. Bỗng “đùng” một tiếng to kinh khủng, chúng tôi giật nẩy mình. Sét! Chắc nó đánh ở đâu gần lắm. Ở đây, cứ mỗi lần trời mưa giông lại hay có sấm sét. Mấy năm trước, sét còn đánh chết cả đàn bò bảy, tám con…
Một lúc sau mưa tạnh. Tôi đang hí hoáy chống cái rèm cho nhà cửa sáng lên chút thì bà Toán hàng xóm hớt ha hớt hảy chạy đến, chưa vào tới nhà đã gọi toáng lên:
- Ơi cụ Nhờ! Ơi cụ…
- Cụ đang ở trong nhà. Có việc gì mà bá vội vàng thế ạ? - Tôi đáp.
- Cụ… Bảo cụ… Anh Cu… Thằng Cu…
Nghe giọng hốt hoảng của bà Toán, mà lại có nhắc đến anh Cu. Cụ Nhờ và chị tôi trong nhà chạy ra.
- Bá ơi. Anh Cu… Anh Cu làm sao hả bá? - Chị lo lắng.
- Thằng Cu… Thằng Cu nhà tôi nó làm sao… bà Toán? - Cụ Nhờ hốt hoảng.
- Thằng Cu…Thằng Cu chết rồi…
Có gì đó vừa bục vỡ từ những lời khó nhọc của bà Toán.
- Bá nói gì thế bá? Bá đừng nói bậy. Bá làm bà xỉu bây giờ - Tôi chạy lại lay mạnh tay bà Toán.
Chị và cụ Nhờ đứng như trời trồng. Tay tôi vẫn bóp mạnh tay bà Toán.
- Sét đánh chết thằng Cu rồi. Nó với chiếc xe đạp cháy sém. Nó… Nó đang nằm trước cửa nhà tôi - Bà Toán nói những lời khó khăn còn lại.
Hai chị em tôi dìu cụ Nhờ đi theo bà Toán. Ra tới nơi, anh Cu đang nằm bên chiếc xe đạp. Mặt bị sém một bên. Áo quần, chỗ cháy chỗ không. Chị tôi lại rút chiếc khăn tay thò ra một múi từ túi áo anh Cu. Đúng là anh Cu thật rồi. Đó là chiếc khăn chị thức mấy đêm hết thêu rồi lại là cho phẳng phiu để tặng anh.
6.
Đám tang anh Cu, người làng đi rất đông. Ai cũng xót thương cho anh Cu, vừa hiền lành, đẹp người đẹp nết, lại có tài, vậy mà phải chết trẻ. Người ta xì xào “Đúng là cái số”. Họ cũng xót thương cho cụ Nhờ, có đứa con như vàng, bây giờ… Còn tôi xót thương cho cả chị tôi nữa. Chị như không còn giọt nước mắt và chút sức lực nào. Anh Cu cũng ác, bỏ chị tôi mà đi.
Trời tối rồi, mà chị không chịu về, cứ ngồi bên mộ anh Cu. Tôi nói thế nào chị cũng chẳng nghe. Tôi đùm đùm gói gói mang cơm ra nghĩa địa cho chị, nhưng chị chẳng buồn ăn. Chị cứ ngồi thế như pho tượng. Trời đêm heo hút. Gió thoang thoảng rót vào bãi tha ma những tiếng vi vu, rì rầm nghe lành lạnh. Tôi bất giác rùng mình, cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng và dựng tóc gáy. Chị thì cứ ngồi vô hồn, mặc cho gió vờn tóc rối tung. Trong đêm tối, ánh trăng lờ mờ hắt xuống đôi mắt chị trũng sâu, ráo hoảnh và gương mặt không chút cảm xúc. Tiếng ếch nhái vọng ra liên hồi, khi nhặt khi khoan. Tự nhiên, tôi liên tưởng tới một bộ phim ma nào đó mà mấy đứa bạn lâu lâu vẫn rủ tôi xem, rồi thét lên, rồi òa khóc vì sợ. Chị thì ngưng lặng, mà thời gian thì cứ vô tình cứa vào mọi thứ, ăn mòn. Khi mảnh trăng mỏng thé như lá lúa nghiêng rơi vào đám mây đen, hình như có ai đó vừa thoáng qua. Như vô thức, tôi bíu chặt lấy tay chị, bảo chị về, người ta nói ở ngoài này nhiều ma lắm. Nhưng chị cứ như không hề nghe thấy.
Tôi bất lực. Mảnh trăng vẫn bị đám mây đen kia nuốt chửng. Không gian lờ mờ, tôi cảm giác như mưa phùn đang bắt đầu thấm xuống mặt và vai, lành lạnh. Rồi sực nhớ, tôi vội chạy về nhà dắt con dao con vào người rồi chạy ra với chị. Lúc đó, tôi sẽ chém vào con ma nào dám đụng tới chị tôi. Như một người đàn ông thực thụ (mặc dù chưa đầy mười tám tuổi), tôi tự thấy mình phải có trách nhiệm bảo vệ chị và bảo vệ mình.
Chị vẫn ngồi vô hồn bên nấm mồ anh Cu. Tôi còn nghe thấy mùi của đất mới chưa khô, và thoang thoảng mùi của mấy vòng hoa đã gần héo úa. Tôi thấy mắt cay xè, từ nhỏ tới giờ, có khi nào thức khuya đến vậy đâu. Mảnh trăng hình lá lúa đã chui ra khỏi đám mây đen khổng lồ, ung dung nghiêng ngả phía trời xa. Tôi dụi dụi mắt, ngáp dài và gối đầu lên chân chị ngủ thiếp đi. Đang mê man thì chị lay mạnh vai tôi gọi:
- Lực! Dậy mau! Nhanh đi em!
- Có chuyện gì thế? - Giọng tôi ngái ngủ.
Khi tỉnh hẳn, tôi thấy có một toán người đang đứng trước mặt. Người cầm xẻng, người cầm rạ, người cầm xà beng. Tôi chưa kịp định thần, bọn họ đã quát vào mặt:
- Hai chị em mày có khôn hồn thì biến khỏi đây mau.
- Các anh định làm gì? - Khi sinh ra, ông trời đã phú cho tôi cái tính lì.
- Không phải việc của mày, đừng có xía vào con, khôn hồn thì dẫn chị mày biến đi và câm mồm lại - Người đàn ông có mặt mũi bặm trợn quay lại mấy người đi cùng, khoát tay - Chuẩn bị đào đi bọn mày!
- Ai cho phép các anh đào mộ anh Cu? Các anh điên rồi à?
Bỗng nhiên cái máu điên nó sục sôi trong tôi. Tôi muốn giết chết cả mấy người kia. Nhưng bọn chúng cười khoái trá, không thèm quan tâm đến những gì tôi vừa nói và gương mặt đã nóng ran vì tức giận của tôi. Bọn họ chuẩn bị đào mộ anh Cu thật. Biết rằng không thể làm gì bọn chúng, tôi dẫn chị đi xa một đoạn và chạy thật nhanh về gõ cửa nhà bà Toán:
- Bá ơi bá! Bá ơi! Mau mở cửa cho con! - Tôi vừa thở, vừa đập cửa ầm ầm và cố gọi thật to.
- Có việc gì thế? Lực hả? - Giọng bà Toán ngái ngủ.
- Nhanh lên bá ơi. Bọn nó đang đào mộ anh Cu. Bá ơi nhanh lên!
Cánh cửa mở toang, và bà Toán tỉnh hẳn.
- Thôi chết! Bá quên mất. Nhanh nào, mình đi. Khoan đã, để bá gọi thêm bác trai.
Dọc đường đi, bà Toán kể rằng người xưa nói những ai bị sét đánh chết thì phải có người canh gác mộ, nếu không sẽ bị người ta đào mộ để chặt tay. Họ nói chỉ cần chặt được tay người ấy thì sẽ làm ăn phát đạt. Chỉ cần đi theo hướng chỉ của bàn tay người chết thì sẽ trộm được nhiều của cải mà không bị phát hiện. Bà Toán nói nhiều nhưng tôi không biết mình nghe có đúng không. Bá nói “mải lu bu với công việc sau đám tang nên bá quên không nhờ người ra canh gác, may mà có hai đứa không thì…”. Chúng tôi ra tới nơi thì họ đã đào gần xong. Nhận ra bá Toán trai, người có máu mặt trong làng nên bọn họ vứt xẻng, cuốc, rạ… bỏ chạy. Bá trai bảo bá gái đưa hai chị em tôi về nghỉ, bá ở lại canh mộ anh Cu. Lúc đó, trời cũng đã tang tảng sáng. Sương lùng bùng trước mặt chúng tôi.
Về gần tới nhà, chúng tôi lại thấy cụ Nhờ hớt hải đằng trước. Cụ bảo cụ nằm mơ thấy anh Cu về báo mộng là người ta đang đào mộ anh ngoài nghĩa địa. Tôi kể lại đầu đuôi cho cụ nghe rồi cùng chị dẫn cụ về nhà. Cụ thở phào, nghe nỗi đau đang vướng mắc trong lòng đâu đó. Ba người chúng tôi đi bên nhau, nhường lời lại cho bình minh đang dần đội núi. Vài tiếng gà gáy sáng vang lên, bỗng dưng nghe buồn và não nề.
7.
Anh Cu mất được ba ngày thì chị tôi phát điên. Chị không còn biết gì nữa. Chiều nào chị cũng đi lang thang dọc con sông. Tiếng cười của chị nghe rợn cả người, có gì đó còn não nề hơn tiếng khóc. Mà có một điều rất lạ, thường ngày chị tôi rất hay khóc và rất dễ khóc. Có khi tôi đã tưởng người chị làm bằng nước, cứ chọc tay vào là nước sẽ chảy. Thế nhưng khi anh Cu chết, chị tôi không hề rơi một giọt nước mắt. Tôi cứ nghĩ rằng chị sẽ phải là người khóc nhiều nhất mới đúng. Tôi không hiểu tại sao, và cũng không cố tìm hiểu làm gì. Đôi mắt chị ráo hoảnh và hình như là cứ đau đáu nhìn về một cái gì đó. Ngày xưa tôi từng say đôi mắt ấy, bây giờ, đôi mắt ấy lại làm tôi lạnh cả người. Miệng chị lúc nào cũng lẩm bẩm như người đang cầu kinh. Tôi không thể nghe rõ chị nói gì, và không biết trong âm thanh thì thầm ấy, có tên anh Cu, và có tên tôi hay không.
Tôi nằm thiếp đi ngoài hiên nhà, nơi mảnh trăng mỏng thé hắt ánh sáng nhàn nhạt xanh. Nhưng bây giờ, trời đang chập choạng tối. Mảnh trăng còn chưa lên. Tôi nhìn ra xa phía con kênh có màu ráng hồng in hằn lần cuối rồi chìm vào giấc ngủ. Cơn mơ đưa tôi đến nơi nào đó hoang vắng, lạ lẫm nhưng lại rất nhiều gương mặt thân quen. Chỉ có điều tôi không thể nhớ tên. Tôi muốn cất tiếng gọi nhưng miệng cứ cứng lại như người câm. Tôi thấy anh Cu đang dắt tay chị đi, trên tay chị cầm mấy bông lục bình tím nhợt nhạt. Tôi cố gọi nhưng không được. Tôi chạy theo thì liền bị mấy người xung quanh túm tay giật lại. Tôi vùng vẫy nhưng càng cố thì họ càng túm chặt hơn. Rồi bỗng dưng tôi khóc thật to, hình như tôi gào thét. Và rồi tôi choàng tỉnh. Tôi không thấy chị đâu. Không ai bên mình cả. Người tôi lạnh toát, mồ hôi hột còn đọng quanh trán và rịn khắp cả người. Tôi vùng dậy chạy đi tìm chị. Mắt trái tôi giật liên hồi. Kệ! Tôi chạy khắp nơi trong cái làng nhỏ bé này nhưng vẫn không thấy chị đâu. Tiếng tu hú từ ngọn đồi bên cạnh vọng ra nghe thật khủng khiếp. Tôi vẫn chạy. Tiếng tu hú vẫn vọng liên hồi…
Ra tới bờ kênh, tôi thấy lòng hoang vắng, cảnh vật hoang vắng. Chỉ có ráng chiều nhuộm con kênh một màu mỡ gà và có chỗ đỏ lên hình tròn như mặt trời vừa rụng xuống đó. Tôi nhìn thấy hai khóm mây như hình hài anh Cu và chị tôi đang nắm tay nhau bước về phía mình. Anh cười, và chị tôi cũng thế. Trong khoảnh khắc ráng chiều biến mất và màn đêm đổ ụp xuống, tôi kịp nhìn thấy hai khóm mây tan vào nhau, vô hình dạng…
N.T.N
(SDB13/06-14)
THANH QUẾ(Chùm truyện mini)
TRẦN HẠ THÁP(thân tặng Ng.X.Hoàng)
TRẦN HẠ THÁP (tiếp theo)
VÕ THỊ ÁNH HỒNGTôi vừa chạy vừa gọi chị trong tiếng sóng rì rào và tiếng lao xao của dãy phi lao. Như không nghe thấy tiếng tôi, chị vẫn thẫn thờ nhìn về xa xăm, chờ đợi...
PHẠM NGỌC TÚYĐó là một cặp vợ chồng trông rất đẹp đôi và hạnh phúc. Chàng cao lớn, mặt vuông. Nàng mảnh khảnh, xinh xắn. Khi lấy nhau, họ ở nhà tập thể của cơ quan. Sau khi cơ quan dời đi chỗ khác, người được phân đất, kẻ được chia nhà, lần lượt dọn đi. Chỉ trừ chàng. Chàng vì cô mà ở lại.
PHẠM XUÂN PHỤNGXưa có một người nông dân chất phác cần cù, nhà ở gần bìa rừng, làm lụng đầu tắt mặt tối bao năm mới dựng được ngôi nhà tranh ba gian hai chái. Trước nhà có cái sân rộng dùng để phơi lạc, loại nông sản chuyên canh của dân trong vùng. Hai vợ chồng có mỗi mụn con trai nên thường chăm bẵm, những mong sau này có được dâu hiền, phúc nhà đến độ, may chăng cháu chắt đầy nhà là mãn nguyện.
NGUYỄN NGỌC LỢICây mai dáng trực đặt nơi khoảng sân lát gạch đỏ của toà nhà ấy đã làm xôn xao cả phố. Gốc cây mai to gộc, u bạnh của nó bám đầy địa y mốc xanh mốc trắng.
TRẦN THÙY MAIThấp thoáng trong văn Trần Thùy Mai là sự phô phang hình hài của linh tự. Những linh tự tủi buồn bởi hết thảy chúng đều được hoài thai từ “độ chênh” của những mối tình khó lần ra hồi kết. Điều đó khiến mỗi truyện ngắn của Mai như là một miếng hồng trần nhỏ nhắn - chị lặng lẽ vấy vá bằng sợi tầm ma trước mỗi rạng đông...
QUẾ HƯƠNGTôi băng qua đường để lên cầu Trường Tiền. Thằng Tí kéo tay tôi lại: “Cậu qua đường mần chi, xe cán chừ!”. Tôi cứ qua. Đám trẻ con đang chơi ở công viên trước mặt ném đá vào tôi. Tôi chạy lên cầu. Đám trẻ réo: “Ông điên! Ông điên!”. Tí chạy theo, vừa thở, vừa nắm tay tôi: “Ai bảo cậu qua bên ni, dắt cậu thiệt mệt!”.
NGUYỄN NGUYÊN PHƯỚC Vào một buổi tối mùa thu, Đinh Hoài Viễn, một nhà văn trẻ tuổi, một người hoàn toàn vô danh trong văn giới, trong khi bóc phong thư mới nhận được vào buổi sáng ngày hôm đó, đã phát hiện ra ở mặt sau cái phong bì rỗng ấy một văn bản kỳ lạ trong hình thức của một truyện ngắn không đề tên tác giả.
ĐỖ KIM CUÔNGQuán cà phê cây sứ của vợ chồng Tư Hiền nằm ngay mặt tiền con đường nhỏ dẫn ra biển. Quán không trang hoàng đèn xanh đèn đỏ, không quầy két, không người chạy bàn, chỉ dăm ba bộ bàn ghế nhựa rẻ tiền.
HƯƠNG LANNàng sống trong một ngôi nhà xưa, được xây cất từ đời ông cố của nàng, tính ngót nghét nó cũng hơn trăm tuổi. Ngôi nhà nằm giữa một khu vườn mênh mông.
LƯƠNG VĂN CHILGT: Nhà tù, nơi chưa mảy may cải hóa được người đàn ông từng trác táng trên nền đạo đức xã hội, nhưng... Truyện được thắt nút khi Thuần “lột trần” vẻ đẹp phồn sinh xuân thì để minh chứng cho những ham muốn nguyên khai của con người là có giới hạn. Không khiên cưỡng ở nhiều chi tiết nhạy cảm, không tục trần trên từng đường cong mỹ diệu... Kịch độc đã thật sự “tiêm” những rung cảm lạ lùng vào miền hoang mê của lương tri đồng loại.
GIAO CHỈ Bão tố thường nổi dậy từ biển khơi hùng vĩ và kể cả. Những hút gió sấn sổ táp xuống mặt đất bao la quăng dội, tàn sát điên cuồng cho hả những cơn giận dồn góp lâu dài.
NGUYỄN ĐẶNG MỪNG Những người thắt đáy lưng ongVừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con (Tục ngữ)
TRẦN THÙY MAIỞ tuổi bốn mươi da mặt nàng vẫn trắng hồng, chưa thoáng một nếp nhăn. Ai nhìn kỹ lắm mới thấy những vết hằn bắt đầu hiện ra quanh cổ, thường được che rất khéo bởi những chuỗi hạt trang nhã. Mà đâu ai nhìn kỹ làm gì. Đứng trước một người đàn bà, dại gì không dán mắt vào vẻ đẹp mà lại đi săm soi tìm khuyết điểm.
NHẤT LÂMKinh thành Huế năm Bính Thìn, thiên hạ xôn xao vì một vụ án đại hình gây bất bình trong cả nước, và để lại cho hậu thế một nỗi tiếc thương khôn nguôi cho hai nhà chí sĩ.
XUÂN ĐÀILàng Tân Mỹ Đông nằm dưới chân núi Tịnh Hồng, trước năm 1975 là vùng của quốc gia, nói cho ngay ban ngày quốc gia điều khiển về hành chính, ban đêm “việt cộng” kiểm soát mọi mặt. Trong làng nhiều người đi lính hai phía, phía nào cũng có sĩ quan cấp tá, cấp úy và binh nhất, binh nhì…
TRẦN DUY PHIÊN1. Xuống tới biền, Lê và tôi thấy chú Phip và hai con bò đứng bên giàn cày. Chẳng chào hỏi, chúng tôi bắt tay vào việc. Tôi tiếp tục đắp bờ mương ngăn đất trồng rau với cái tum đổ nước vào sông Dakbla, còn Lê lo chỉ việc cho chú ấy.
QUỲNH VÂN"Lục bình vừa trôi vừa trổ bôngLục bình không kịp dừng để tím..."